Quận Hà Đông được biết đến là vùng đất chiến lược của kinh thành Thăng Long xưa và Hà Nội ngày nay. Đây đồng thời là một trong những khu vực có tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, góp phần đáng kể vào sự phát triển của đô thị Hà Nội. Trong bài viết dưới đây, Maison Office sẽ cùng bạn tìm hiểu quận Hà Đông có bao nhiêu phường trực thuộc cũng như cung cấp đến bạn những thông tin về địa lý, hành chính của khu vực này!
Quận Hà Đông được biết đến là vùng đất chiến lược của kinh thành Thăng Long xưa và Hà Nội ngày nay. Đây đồng thời là một trong những khu vực có tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, góp phần đáng kể vào sự phát triển của đô thị Hà Nội. Trong bài viết dưới đây, Maison Office sẽ cùng bạn tìm hiểu quận Hà Đông có bao nhiêu phường trực thuộc cũng như cung cấp đến bạn những thông tin về địa lý, hành chính của khu vực này!
Nhìn trên bản đồ hành chính quận Hà Đông, người xem có thể nắm bắt được những thông tin cụ thể như sau:
Những thông tin mà bản đồ hành chính cung cấp là cơ sở để các cấp ủy địa phương lên kế hoạch quản lý đô thị. Bên cạnh đó, tài liệu này cũng giúp các nhà đầu tư phân tích tiềm năng bất động sản của khu vực này.
Dưới đây là danh sách UBND các phường thuộc quận Hà Đông, Hà Nội. Nếu có bất kỳ vấn đề nào về thủ tục hành chính, người dân có thể liên hệ đến UBND quận hoặc UBND phường nơi mình sinh sống để được giải quyết nhanh chóng.
Với vị trí chiến lược ngay cửa ngõ phía Tây Nam của thành phố, quận Hà Đông có nhiều đóng góp quan trọng về mọi mặt từ kinh tế, chính trị cho đến quốc phòng. Khu vực này cũng được biết đến là đầu mối giao thông quan trọng, giúp Hà Nội kết nối nhanh chóng với các tỉnh lân cận. Dưới đây là danh sách các tuyến đường trên địa bàn quận Hà Đông được cập nhật mới nhất hiện nay:
Quận Hà Đông là 1 trong 12 quận nội thành của thủ đô Hà Nội, nằm cách trung tâm thành phố khoảng 12 km về phía Tây Nam. Khu vực này trước đây được biết đến là thành phố Hà Đông, tỉnh lỵ của tỉnh Hà Tây. Đến ngày 08/05/2009, quận Hà Đông mới chính thức được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích, dân số của thành phố Hà Đông. Dù được thành lập khá muộn so với các quận huyện khác của Hà Nội, quận Hà Đông lại nhanh chóng trở thành khu vực có tốc độ phát triển kinh tế và đô thị hóa vượt bậc của thành phố.
Hà Đông hiện đang nắm giữ vị trí chiến lược ở phía Tây Nam thành phố Hà Nội, có vị trí địa lý tiếp giáp với các khu vực:
Theo thống kê, quận Hà Đông có tổng diện tích tự nhiên là 49,64 km2 (tương đương 4,963.77 ha). Với diện tích chiếm khoảng 1,48% tổng diện tích thành phố Hà Nội, Hà Đông được biết đến là quận nội thành có diện tích xếp thứ 2 thành phố (sau quận Long Biên).
Thời điểm trước năm 2006, dân số của quận Hà Đông chỉ có khoảng 96 nghìn người. Sau đợt điều chỉnh địa giới hành chính theo Nghị định số 01/2006/NĐ-CP, dân số của khu vực này đã tăng lên thành 173.707 nhân khẩu. Và tính đến năm 2022, tổng dân số của quận Hà Đông đã lên mức 440.000 người, mật độ dân số đạt 8.900 người/km2.
Quận Hà Đông hiện có 17 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 17 phường: Biên Giang, Đồng Mai, Yên Nghĩa, Dương Nội, Hà Cầu, La Khê, Mộ Lao, Nguyễn Trãi, Phú La, Phú Lãm, Phú Lương, Kiến Hưng, Phúc La, Quang Trung, Vạn Phúc, Văn Quán, Yết Kiêu.
Trong số các phường của quận Hà Đông, phường Hà Cầu là nơi đặt trụ sở Ủy ban nhân nhân quận cùng nhiều cơ quan hành chính quan trọng khác.
Thị trường bất động sản tại quận Hà Đông, Hà Nội được đánh giá là khá sôi động trong vài năm trở lại đây. Khu vực này có vị trí đắc địa, gần các trục đường lớn như Lê Trọng Tấn, Khuất Duy Tiến và Lê Văn Lương. Địa bàn quận Hà Đông cũng được chú trọng đầu tư hạ tầng cơ sở, giao thông hiện đại, giúp kết nối nhanh chóng đến các khu vực trung tâm của thành phố.
Sự xuất hiện của nhiều công trình tòa nhà cao tầng hiện đại cũng càng minh chứng cho bước chuyển mình mạnh mẽ của quận Hà Đông. Giá bất động sản tại khu vực này được chia thành nhiều phân khúc tùy thuộc vào vị trí, diện tích và tiện ích, dịch vụ xung quanh. Các khu vực như Trung Văn, Mỗ Lao, Văn Quán thường có mức giá cao hơn nhờ vị trí gần các trung tâm thương mại và giáo dục.
Quận Hà Đông hiện nay cũng là khu vực kinh tế phát triển năng động, thu hút không ít doanh nghiệp hoạt động đa lĩnh vực từ thương mại, dịch vụ cho đến sản xuất. Điều này dẫn đến nhu cầu thuê văn phòng tại khu vực ngày càng tăng cao. Với nguồn cung đa dạng, chất lượng và mức giá thuê hợp lý, ngày càng có nhiều doanh nghiệp lựa chọn Hà Đông làm nơi đặt trụ sở văn phòng. Mức giá cho thuê văn phòng tại quận Hà Đông, Hà Nội cụ thể như sau:
Qua những thông tin mà Maison Office vừa tổng hợp, chắc hẳn bạn đã có được lời giải đáp cho thắc mắc quận Hà Đông có bao nhiêu phường hiện nay. Cùng với tốc độ phát triển kinh tế và đô thị hóa nhanh chóng, các phường của quận Hà Đông cũng dần có những thay đổi đáng kể. Không chỉ là điểm đến an cư lý tưởng của nhiều cư dân, khu vực này còn được đánh giá là mảnh đất đầu tư có rất nhiều tiềm năng trong tương lai.
Maison Office là đơn vị cho thuê văn phòng chuyên nghiệp, đội ngũ tư vấn kinh nghiệm 10+ năm sẽ giúp bạn nhanh chóng tìm được văn phòng phù hợp nhất ✅ Liên hệ 0988.902.468 ngay!
Người bảo là "Không ! Làm gì có", người lại bảo "chắc là có". Câu trả lời còn đang bỏ ngỏ.
Tỉnh Hà Nội thành lập năm Minh Mạng thứ 12 (1831), gồm 12 huyện trong đó có hai huyện: Thọ Xương và Vĩnh Thuận, xưa là huyện Quảng Đức, thuộc phủ Hoài Đức, xưa là phủ Phụng Thiên (thuộc đất Kinh Thành Thăng Long thời Lê). 36 phố phường Hà Nội đều nằm trong khuôn viên hai huyện này.
Đến ngày 1-10-1888, Đồng Khánh ký nhượng đất hai huyện trên cho thuộc quyền sở hữu của người Pháp thì tỉnh Hà Nội chấm dứt. Sau đó ít lâu, năm huyện tách ra lập thành tỉnh Hà Nam, tám huyện lập thành tỉnh Hà Đông. Ngày 1-10-1888 là thời hạn cuối cùng cho việc tìm 36 phố phường Hà Nội xưa, khi còn thuộc tỉnh Hà Nội.
Đến ngày 1-10-1888, Đồng Khánh ký nhượng đất hai huyện trên cho thuộc quyền sở hữu của người Pháp thì tỉnh Hà Nội chấm dứt. Sau đó ít lâu, năm huyện tách ra lập thành tỉnh Hà Nam, tám huyện lập thành tỉnh Hà Đông. Ngày 1-10-1888 là thời hạn cuối cùng cho việc tìm 36 phố phường Hà Nội xưa, khi còn thuộc tỉnh Hà Nội.
Sách "Hoàng Việt dư địa chí" khắc song in vào năm Minh Mạng thứ 14 (1833) có đoạn viết về 36 phố phường Hà Nội như sau:
"Phủ Hoài Đức, xưa là phủ Phụng Thiên có hai huyện, 13 tổng, 249 thôn phường.Huyện Thọ Xương: 18 phường. Huyện Vĩnh Thuận (xưa là huyện Quảng Đức): 18 phường."
Sách không liệt kê tiếp 36 phường mà chuyển sang chép tên các di tích lịch sử - văn hóa, các danh lam thắng cảnh và chú thích được tên phường của 13 di tích, thắng cảnh đóng trên các phường đó.
Tên các phường còn thiếu tất phải dựa vào các Dư địa chí được biên soạn vào đời Gia Long:
- Sách "Các tổng, trấn, xã danh bị lãm". (1)
- Sách "Tìm về cội nguồn" tập 1 của Phan Huy Lê (phần địa bạ, các phường năm Gia Long 4-1805). (2)
Tên các phường thuộc huyện Thọ Xương: 1. Yên Thọ 2. Hà Khẩu 3. Đông Tác 4. Đông Hà 5. Báo Thiên 6. Đồng Xuân 7. Cổ Vũ (ghi trong sách Hoàng Việt dư địa chí) 8. Đồng Lạc 9. Khúc Phố 10. Thái Cực 11. Đông Các 12. Diên Hưng 13. Phúc Lâm 14. Phục Cổ 15. Kim Hoa 16. Hồng Mai 17. Xã Đàn ( ghi trong sách: Các tổng trấn, xã danh bị lãm) 18. An Xá (ghi trong sách: Tìm về cội nguồn).
Tên các phường thuộc huyện Vĩnh Thuận:
1. Thịnh Quang 2. Yên Thái 3. Yên Hoa 4. Quảng Bá 5. Thuỵ Chương 6. Bích Câu (ghi trong sách: Hoàng Việt dư địa chí) 7. Hoè Nhai 8. Thạch Khối 9. Nghi Tàm 10. Tây Hồ 11. Nhật Chiêu 12. Hồ Khẩu 13. Bái Ấn 14. Trích Sài 15. Võng Thị 16. Quan Trạm 17. Công Bộ (ghi trong sách: Các Tổng trấn, xã danh bị lãm) 18. Yên Lãng (ghi trong sách: Tìm về cội nguồn).
Triều Tự Đức ( 1848-1883): Hà Nội có 31 phố.
- Sách "Đại Nam Nhất thống chí" do quốc sử quán triều Tự Đức soạn khoảng từ 1864-1875 (3) có 21 phố.
- Sách "Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ầt Hợi-1876" của Trương Vĩnh Ký (4) có 1 phố.
- Sách "Đồng Khánh dư địa chí" (1886-1887) (5) có 0 phố.
- Bản đồ Hà Nội do quân Pháp vẽ 2-8-1893 (6) có 6 phố.
- Sách Hà Nội thời kỳ 1873- 1888 triều Đồng Khánh (7) có 3 phố.
- Sách "Hà Nội nửa đầu thế kỷ 20" của Nguyễn Văn Uẩn (8) có 5 phố.
Số lượng phố ở Hà Nội luôn biến động không ngừng; nếu tính theo thứ tự thời gian đến một thời điểm: Ngày, tháng, năm nào đó thì số phố là 36, trước hay sau thời điểm thì số phố đã khác rồi.
Tên các phố trong 36 phố phụ thuộc vào nguồn thông tin thu thập được, nếu nguồn thông tin thay đổi thì tên phố sẽ thay đổi theo, thậm chí có khi số lượng phố cũng thay đổi theo.
Nay dựa vào các tư liệu đã thu thập được lập nên: Ba mươi sáu phố cổ Hà Nội (1864-1888)
1. Hà Khẩu: Hàng Buồm (thuộc tổng Tả Túc) 2. Việt Đông: Hàng Ngang (Hữu Túc) 3. Hàng Mã ( Hậu Túc) 4. Hàng Mắm (Tả Túc) 5. Báo Thiên: Hàng Trống (Tiền Túc) 6. Nam Hoa: Hàng Bè (Hữu Túc) 7. Hàng Bồ (Tiền Túc) 8. Vàng Bạc: Hàng Bạc (Hữu Túc) 9. Hàng Giầy (Hữu Túc) 10. Mã Mây (Hữu Túc) 11. Đồng Lạc: bán y phục phụ nữ (Tiền Túc ) 12. Thái Cựu: nhuộm mầu đỏ (Tiền Túc) (Pháp gọi chung hai phố 11+12 là Hàng Đào) 13. Đông Hà (bán chiếu): Hàng Chiếu (Hậu Túc) 14. Phúc Kiến: Lãn Ông (Hậu Túc) 15. Phường Phục Cổ: Hàng Thiếc (Tiền Túc) 16. Hàng Lam: Thợ Nhuộm (Tiền Nghiêm) 17. Đồng Xuân (Hậu Túc) 18. Thanh Hà (Hậu Túc) 19. Hàng Gai (Tiền Túc) 20. Hàng Đãy: Nguyễn Thái Học (Tiền Nghiêm) 21. Hàng Chè 22. Hàng Muối 23. Hàng Đường 24. Hàng Hòm 25. Hàng Mành 26. Hàng Khảm 27. Hàng Da 28. Lò Sũ 29. Ngõ Gạch 30. Hàng Đồng 31. Hàng Nón. Triều Đồng Khánh: có năm phố. 32. Hàng Vải 33. Hàng Lược 34. Hàng Bông 35. Hàng Gà 36. Hàng Cót.
Chú thích về các tên phố Hà Nội
Số 2: phố Việt Đông: Việt Đông là tên gọi khác của tỉnh Quảng Đông. Xưa là phường Đường Nhân sau là Diên Hưng, hay là phố Hàng Ngang. Pháp gọi phố Hàng Ngang là phố Quảng Đông.
Số 5: Phố Báo Thiên: phố này có niên đại từ 1864-1875. Đến 1883 quân đội Pháp vẽ lại bản đồ Hà Nội vào ngày 20-8, trên bản đồ có tên Thợ Thêu, tức phố Hàng Trống và phố Nhà Chung. Như vậy phố Nhà Chung mới có từ năm 1883, do đó Tả Túc ta có thể tin chắc phố Báo Thiên là phố Hàng Trống.
Số 8: Phố Vàng Bạc; sách Đại Nam nhất thống chí chú thích là xưa thuộc phường Đông Các mà phố Hàng Bạc đóng trên đất phường này nên phố Vàng Bạc nay là phố Hàng Bạc.
Số 13: phố Đông Hà bán chiếu nằm trên đất thôn Thanh Hà, tổng Hậu Túc, còn phường Đông Hà tổng Tiền Túc mới thuộc phố Hàng Gai. Nên có thể xác định phố Đông Hà là phố Hàng Chiếu.
Số 14: Phố Phúc Kiến: sách Đại Nam nhất thống chí thì ngày xưa phố này chuyên bán đồ đồng vì người Tàu đem đồng ở mỏ Tụ Long về bán ở phố này, còn tên gọi Phúc Kiến là do Hoa kiều ở Phúc Kiến được phép cư trú tại đây. Từ năm 1947 phố này là phố Lãn Ông chuyên bán thuốc bắc.
Số 19: Phường Phục Cổ: vì sao không gọi là phố Phục Cổ, nguyên là do phố Hàng Gai, chữ Hán gọi là phố Phục Cổ rồi, phường Phục Cổ khá rộng, đình phục cổ ở phố Nguyễn Du (tổng Tiền Nghiêm), song ở tổng Tả Túc cũng là đất phường Phục Cổ. Phố Hàng Gai ở tổng Tiền Túc được gọi là phố Phục Cổ chắc là cũng có duyên cớ. Nay phố Hàng Thiếc ở thôn Yên Nội, tổng Tiền Túc có thể là đất phường Phục Cổ, cho nên sách Đại Nam nhất thống chí mới chữa là phường Phục Cổ đúc đồ thiếc để bán.
Số 16: Phố Hàng Lam: chữ Hán gọi là phố Yên Trung. Trong Bản đồ Tự Đức thôn Yên Trung nằm ở góc đông nam thành Hà Nội (1805) tức là nằm ở đầu phía Bắc phố Thợ Nhuộm. Bản đồ Hà Nội năm 1883 đã thấy ghi tên phố Thợ Nhuộm, chỉ có tên phố Hàng Gai chưa có tên phố Hàng Bông. Từ đó có thể xác định phố Hàng Lam là phố Thợ Nhuộm, không phải là phố Hàng Bông Lờ.
Số 21: Phố Hàng Chè ở đầu phía Bắc phố Đinh Tiên Hoàng đến đền Bà Kiệu, ngày nay phố này nằm chung trong phố Đinh Tiên Hoàng, không còn tên riêng của một phố độc lập nữa.
Số 26: phố Hàng Khảm: Sách Hà Nội 1873-1888 (trang 121-122) thì nghề khảm du nhập vào Bắc Kỳ từ 1820, cho đến năm 1873 thì chất lượng mặt hàng này đã rất tinh tế và phát đạt.
Phố Hàng Khảm chạy từ Đồn Thủy tới lũy bán nguyệt Đông Nam của Thành Hà Nội (quãng Cửa Nam) có chiều dài bằng phố Paul Bert (nay là Tràng Tiền + Hàng Khay và phố Tràng Thi). Vì phố rất dài nên nằm trải dài trên bốn tổng: Tiền Túc, Tả Túc, Tả Nghiêm, Tiền Nghiêm.
Số 18: Phố Lò Sũ. Theo tên trên bản đồ Hà Nội 1883 là Ru de Merussiers (không hiểu là phố gì) nhưng nó nằm đúng vị trí phố Lò Sũ ngày nay nên ghi là phố Lò Sũ.
Số 29: Phố Ngõ Gạch. Theo sách Hà Nội 1873-1888 (trang 110-111): Ngày 2-5-1873 Jean Dupuis bố trí cho cận vệ ở phố Than-Ha (?), ngày nay là phố Hàng Chiếu. Ngôi nhà này nằm ở đầu "một ngõ thông với một phố song song với phố của chúng tôi (tức phố Hàng Chiếu) và bị chúng tôi đóng lại vào ban đêm để tránh mọi bất ngờ". Như vậy chỉ có thể là phố Ngõ Gạch vì nó song song với phố Hàng Chiếu và phố Hàng Buồm. Còn phố Nguyễn Siêu thì tới 1936 mới có tên trên bản đồ, mặc dù cụ đã ngồi dạy học ở đó từ lâu.
1. 36 phường Hà Nội thì chia đều ra hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận, mỗi huyện 18 phường; còn 36 phố thì đều ở huyện Thọ Xương và hầu hết đều ở đất thuộc bốn tổng: Tiền, Hậu, Tả, Hữu Túc, chỉ có vài phố ở các tổng Nghiêm, 35/36 phố thuộc đất quận Hoàn Kiếm bây giờ ngày nay.
2. Trên các phố dân gian đặt ra như: Hàng Bồ, Mã Mây, Lò Sũ... đến năm 2003 đã trải qua hơn 100 năm vẫn giữ nguyên tên cũ; còn các tên chữ Hán như Hà Khẩu, Nam Hoa... và bằng Tiếng Pháp thì hầu như dân chúng quên rồi.
3. Các sử liệu, tư liệu chính, mỗi sách hay tư liệu chỉ ghi được khoảng trên 20 phố, gộp chung lại mới được 31 phố thời Tự Đức. Có lẽ thời kỳ này số lượng phố Hà Nội chưa nhiều. Song thời Đồng Khánh chỉ ghi lại được tên 5 phố; có thể do ghi chép thiếu sót chưa phản ánh đúng thực trạng chăng? Sang thời Pháp quản lý, chỉ khoảng đến năm 1890 đã kê được tên trên 70 phố.
(1): Sách này biên soạn vào 1810-1812 thời Gia Long. Dương Thị Thoa-Phạm The dịch và biên soạn - NXB Khoa học xã hội. Tr 95-96-97-98.(2): Sách này do NXB Thế giới - Hà Nội - 1988. Tr 250 và 254.(3): Sách "Đại Nam nhất thống chí" (tập 3). Tr 198-199 - NXB Thuận Hóa.(4): Sách "Chuyến đi Bắc Kỳ 1876" của Trương Vĩnh Ký in trong tạp chí Xưa & Nay số tháng 11-1998.(5): Sách "Đồng Khánh dư địa chí" - NXB Thế Giới-2003.(6): Bản đồ Hà Nội 1883: chép tên phố từ số 23-28.(7): Sách "Hà Nội giai đoạn 1873-1888" André Masson-NXB Hải Phòng-2003.(8): Sách "Hà Nội nửa đầu thế kỷ 20" (tập 2). Tr13-14 NXB Hà Nội-1995.