Nguyễn Thu Trang1, Nguyễn Xuân Trung,2 Nguyễn Thị Ràng3
Nguyễn Thu Trang1, Nguyễn Xuân Trung,2 Nguyễn Thị Ràng3
Mối liên kết giữa lao động và di cư ở Việt Nam mang lại cả cơ hội và thách thức. Sự tăng trưởng liên tục của các trung tâm đô thị và nhu cầu lao động có thể sẽ tiếp tục duy trì tình trạng di cư nội địa. Tuy nhiên, việc giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội mà người lao động nhập cư phải đối mặt là rất quan trọng để đảm bảo rằng di cư đóng góp tích cực cho sự phát triển của Việt Nam.
Chính sách: Để giảm thiểu các thách thức, chính phủ Việt Nam cần thực hiện các chính sách nhằm để đẩy mạnh an sinh xã hội cho người lao động di cư, cả trong nước và quốc tế, bao gồm cải thiện khả năng tiếp cận y tế, giáo dục và nhà ở tại các khu vực đô thị, cũng như củng cố khung pháp lý để bảo vệ quyền lợi của người lao động Việt Nam ở nước ngoài.
Phát triển bền vững: Giữ cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là điều cần thiết. Cần nỗ lực phát triển các vùng nông thôn để giảm bớt nhu cầu di cư, ví dụ như đầu tư vào hiện đại hóa nông nghiệp và tạo việc làm phi nông nghiệp tại các khu vực nông thôn. Ngoài ra, quy hoạch đô thị phải tính đến lượng người di cư liên tục để đảm bảo phát triển bền vững.
Hợp tác quốc tế: Là một quốc gia xuất khẩu lao động lớn, Việt Nam cần tiếp tục tham gia vào hợp tác quốc tế để đảm bảo rằng người lao động của mình được đối xử công bằng ở nước ngoài. Điều này bao gồm làm việc với các nước tiếp nhận để thực thi các tiêu chuẩn lao động và bảo vệ người lao động di cư khỏi tình trạng bị bóc lột.
Thị trường lao động của Việt Nam tự hào có một lực lượng lao động lớn, nhưng vẫn tồn tại các khoảng cách về kỹ năng và tình trạng thiếu việc làm. Di cư thúc đẩy tăng trưởng nhưng cũng gây áp lực lên tài nguyên. Để phát triển mạnh mẽ, Việt Nam cần thu hẹp khoảng cách về kỹ năng, thúc đẩy việc làm chính thức và khuyến khích phát triển nông thôn. Thành công phụ thuộc vào khả năng tạo ra một thị trường lao động hoà nhập với mức lương công bằng và bảo trợ xã hội. Những lựa chọn mà Việt Nam đưa ra hôm nay sẽ quyết định tương lai của lực lượng lao động và con đường kinh tế của quốc gia.
(BKTO) - Khi tham gia thị trường lao động nước ngoài, lao động nữ phải đối mặt với nhiều thách thức và rào cản hơn so với nam giới.
Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTBXH), lao động Việt Nam đang có mặt ở hơn 40 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó, lực lượng lao động nữ đi xuất khẩu lao động cũng chiếm số lượng khá lớn.
Để bảo vệ lao động đi làm việc ở nước ngoài, đã có nhiều chính sách được ban hành, trong đó phải kể đến Luật Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Mặc dù vậy, khi tham gia thị trường lao động nước ngoài, lao động nữ di cư phải đối mặt với nhiều thách thức và rào cản.
Theo Báo cáo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng tuy chỉ chiếm khoảng 30% nhưng lại đóng góp tới 50% lượng kiều hối… Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, phụ nữ Việt Nam ra nước ngoài làm việc phải đối mặt với nhiều thách thức và rào cản hơn nam giới.
Chia sẻ về những khó khăn khi đi làm việc ở Nhật Bản, chị Nguyễn Thị Thủy (Hà Giang) cho biết, là phụ nữ nên ngay từ đầu, khi quyết định đi làm việc ở nước ngoài, chị chọn doanh nghiệp uy tín để nộp hồ sơ. Tuy nhiên, sang bên đó, chị cũng gặp không ít khó khăn về ngôn ngữ, bỡ ngỡ vì phong tục tập quán. Hơn nữa, chị phải mất 1 năm mới dám đăng ký làm thêm vì chưa thông thuộc đường phố, nơi ở nên lo sợ những rủi ro khi đi làm về muộn.
Đề cập về những khó khăn của lao động nữ di cư, bà Nguyễn Thị Minh Hương - Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam - cho biết, khi tham gia thị trường lao động nước ngoài, lao động nữ di cư phải đối mặt với nhiều thách thức và rào cản hơn so với nam giới.
Trước khi đi lao động ở nước ngoài, lao động nữ có xu hướng ít được tiếp cận thông tin tuyển dụng, hạn chế trong việc được đào tạo an toàn, hiệu quả và di cư hợp pháp. Các nội dung đào tạo trước khi ra nước ngoài chưa quan tâm đến các vai trò giới đặc thù của phụ nữ.
Trong quá trình lao động ở nước ngoài, kết quả một số nghiên cứu cho thấy, lao động nữ có điều kiện lao động nặng nhọc, điều kiện sống khó khăn, có nguy cơ bị lạm dụng, bị bóc lột, xâm hại tình dục. Họ có thể gặp khó khăn trong việc tìm kiếm hỗ trợ pháp lý, nảy sinh tâm lý cô đơn, sợ hãi.
Sau khi trở về quê nhà, lao động nữ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm cơ hội việc làm, khó có thể phát huy được tay nghề. Tình trạng khá phổ biến là lao động di cư ít nhiều học được kỹ năng chuyên môn trong quá trình lao động ở nước ngoài (70%) nhưng lại ít được áp dụng ở quê nhà khi trở về (3%)… Khi hồi hương, lao động nữ di cư còn có thể phải đối mặt với các rạn nứt trong hôn nhân và gia đình, thậm chí cả bạo lực gia đình.
Cần thêm dịch vụ hỗ trợ di cư an toàn
Để hỗ trợ, bảo vệ lao động nữ di cư, theo bà Lê Hồng Việt - Học viện Phụ nữ Việt Nam, bên cạnh khung chính sách, pháp luật của Nhà nước và địa phương, vấn đề truyền thông, nâng cao nhận thức cho lao động nữ di cư; khâu tư vấn, giới thiệu hỗ trợ việc làm; vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ trong hỗ trợ lao động nữ hồi hương rất quan trọng.
Còn theo bà Vũ Hồng Minh - Phó Giám đốc Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước, Bộ LĐTBXH, cần tăng cường phối hợp giữa các Bộ, ban ngành và các tổ chức, đơn vị để thực thi, giám sát việc thực thi Luật và các chính sách mới trong thực tiễn cuộc sống; đẩy mạnh thông tin tuyên truyền để người lao động hiểu rõ được quyền lợi đi kèm trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, đặc biệt là chị em phụ nữ vùng sâu, xa, có hoàn cảnh khó khăn. Cần thông tin rộng rãi địa chỉ, số điện thoại các cơ quan, đơn vị hỗ trợ để giải quyết nhanh chóng các vấn đề cấp thiết cho phụ nữ di cư lao động ở nước ngoài; chia sẻ các điển hình tốt, các kinh nghiệm trong việc hỗ trợ, bảo hộ công dân giữa các nước gửi lao động.
Là một tổ chức xã hội chuyên trợ giúp cho lao động di cư trong và ngoài nước, bà Nguyễn Thu Giang - Phó Giám đốc Viện Phát triển sức khỏe Cộng đồng ánh sáng (Light) - cho rằng, bên cạnh việc phối hợp với các tổ chức trong nước và quốc tế triển khai nhiều hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình và mua bán người dựa vào cộng đồng, cần có thêm các dịch vụ hỗ trợ ban đầu cho phụ nữ di cư hồi hương, tăng cường nhận thức về di cư an toàn và khả năng ứng phó cho lao động nữ di cư.
Ở góc độ người đã từng ra nước ngoài làm việc, chị Lê Thị Xuyến (Thanh Hóa) cho rằng, các ngành, các cấp tiếp tục quan tâm đến công tác tập huấn, tuyên truyền pháp luật lao động, công khai rộng rãi thông tin về doanh nghiệp có giấy phép đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc. Chính quyền địa phương khi giới thiệu các công ty tư vấn xuất khẩu lao động cần quan tâm hơn nữa đến việc lựa chọn các công ty uy tín tư vấn cho người lao động.../.
Lực lượng lao động dồi dào và năng động
Việt Nam tự hào có một lực lượng lao động dồi dào, với khoảng 52,4 triệu người có việc làm năm 2024. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ở Việt Nam khá cao (76,4% năm 2023), cho thấy động lực quốc gia lớn và sự sôi động của nền kinh tế. Nam giới tham gia lực lượng lao động cao hơn nữ giới – 53,2% so với 46,8%. Mặc dù có xu hướng đô thị hóa gần đây, phần lớn lao động Việt Nam, khoảng 62,6%, vẫn tập trung ở khu vực nông thôn.
Thị trường lao động Việt Nam đang trải qua quá trình chuyển đổi, trong đó có sự chuyển dịch đáng chú ý từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Mặc dù nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản vẫn sử dụng một phần đáng kể của lực lượng lao động (26,9%), tỷ trọng của công nghiệp, xây dựng (33,5%) và dịch vụ (39,6%) đã thực sự vượt qua ngành nông nghiệp truyền thống. Xu hướng này phản ánh cơ sở công nghiệp ngày càng phát triển của Việt Nam và những nỗ lực hiện đại hóa đang diễn ra.
Tình trạng thiếu việc làm và việc làm phi chính thức
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động của Việt Nam năm 2023 là 2,28%. Tuy nhiên, khi xem xét kỹ hơn sẽ thấy sự chênh lệch giữa khu vực thành thị và nông thôn. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị cao hơn một chút ở mức 2,75%, trong khi khu vực nông thôn có tỷ lệ thấp hơn là 1,99%.
Một chỉ số quan trọng phản ánh hiện trạng của lực lượng lao động là tình trạng thiếu việc làm – được hiểu là những người được tuyển dụng nhưng không đạt công suất mong muốn, nhận được quá ít giờ hoặc công việc không tận dụng được kỹ năng hoặc trình độ được đào tạo của họ. Những người lao động này làm việc ít hơn 35 giờ mỗi tuần và sẵn sàng làm thêm giờ. Tình trạng thiếu việc làm vẫn là vấn đề đáng quan tâm ở Việt Nam, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Năm 2023, tỷ lệ thiếu việc làm của cả nước đối với dân số trong độ tuổi lao động là 2,01%. Tuy nhiên, con số này tăng lên 2,27% ở khu vực nông thôn, so với 1,59% ở khu vực thành thị. Sự chênh lệch này cho thấy rằng mặc dù người dân ở khu vực nông thôn có thể tìm được việc làm nhưng họ thường thiếu việc làm, làm việc ở những công việc không tận dụng hết thời gian, kỹ năng hoặc mang lại đủ thu nhập.
Những người mới tốt nghiệp và những người tìm việc trẻ tuổi thường gặp khó khăn trong việc tìm kiếm công việc phù hợp, dẫn đến tình trạng thiếu việc làm hoặc làm việc ở khu vực phi chính thức. Vào năm 2021, khu vực phi chính thức sử dụng khoảng 65,1% lực lượng lao động – khu vực phi chính thức có đặc trưng là thiếu an ninh việc làm, thiếu phúc lợi và an sinh xã hội. Năm 2023, số liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới cho thấy có đến 76% tổng số lao động làm việc trong khu vực phi chính thức. Trong số 1,9 triệu lao động phi chính thức này, chỉ có 5% tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Chính phủ đang nỗ lực không ngừng để chính thức hóa phân khúc này và mở rộng các biện pháp bảo trợ xã hội, nhằm đạt được tỷ lệ bao phủ bảo hiểm xã hội là 60% vào năm 2030.
Lực lượng lao động của Việt Nam ngày càng có tay nghề cao hơn. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 27,2%, cho thấy xu hướng tích cực trong giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, vẫn tồn tại khoảng cách đáng kể giữa thành thị (42,0%) và nông thôn (18,4%). Việc mở rộng khả năng tiếp cận các chương trình đào tạo ở khu vực nông thôn là rất quan trọng để tạo ra lực lượng lao động cân bằng và lành nghề hơn, thúc đẩy cả cơ hội cá nhân và khả năng cạnh tranh quốc gia.
Microsoft Việt Nam đẩy mạnh đào tạo CNTT cho học sinh nông thôn. Ảnh đăng tải trên VIR
Thu nhập trung bình hàng tháng của một người lao động trong năm 2023 là khoảng 7 triệu đồng (tương đương 280 USD), tuy nhiên có sự chênh lệch đáng kể về tiền lương theo giới tính và khu vực. Nam giới có thu nhập cao hơn nữ giới gần 36% và lao động ở thành thị có thu nhập cao hơn nông thôn gần 40%. Việc giải quyết những chênh lệch này là điều rất quan trọng để giảm thiểu bất bình đẳng và đảm bảo công bằng trong thu nhập.
Hơn nữa, hiện nay chỉ có 38,8% lực lượng lao động có bảo hiểm xã hội và 31,18% tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Mở rộng các biện pháp bảo trợ xã hội là rất cần thiết để nâng cao phúc lợi và an ninh cho người lao động.
Kể từ thời kỳ Đổi mới, Việt Nam đã chứng kiến làn sóng di cư gia tăng, bao gồm cả dòng di cư trong nước và ra quốc tế. Những xu hướng này được thúc đẩy bởi các cơ hội kinh tế, sự thay đổi nhân khẩu học và các yếu tố xã hội, tác động đáng kể đến bối cảnh kinh tế xã hội của Việt Nam.
Di cư quốc tế từ Việt Nam bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm cơ hội kinh tế, theo đuổi mục tiêu giáo dục và đoàn tụ gia đình. Các xu hướng chính bao gồm: