Tuy nhiên, từ thời hoàng đế Thuận Trị nhà Thanh (1638 - 1661), hoàng tộc bắt đầu loại trừ phụ nữ Hán tiến cung bằng cách chỉ giới hạn chọn phi tần cho vua trong các gia đình Bát kỳ, chủ yếu là người Mãn Châu và Mông Cổ.
Tuy nhiên, từ thời hoàng đế Thuận Trị nhà Thanh (1638 - 1661), hoàng tộc bắt đầu loại trừ phụ nữ Hán tiến cung bằng cách chỉ giới hạn chọn phi tần cho vua trong các gia đình Bát kỳ, chủ yếu là người Mãn Châu và Mông Cổ.
Chân váy len dài khi kết hợp cùng áo len hoặc áo sweater hay áo thun đều mang đậm chất phong cách Hàn Quốc. Các nàng khi diện bộ phối này đều toát lên vẻ đẹp thanh lịch, nhẹ nhàng. Đây cũng là set đồ nàng có thể diện khi đi làm và cả khi đi chơi.
Chân váy hoa nhí dường như là sự lựa chọn hoàn hảo cho các nàng làm việc trong môi trường công sở. Kiểu phối này vừa mang nét đẹp nhẹ nhàng, vừa tạo sức hút riêng cho nàng.
Chân váy midi đích thị là kiểu váy dành cho chốn công sở. Kiểu chân váy này khi phối cùng áo sơ mi mang đến vẻ đẹp rất thanh thoát và hài hòa. Đây cũng là cách phối đồ thời trang thịnh hành và luôn giúp nàng thoải mái, dễ chịu cho cả ngày dài làm việc.
Chân váy dài xếp ly giúp tăng thêm sự nhã nhặn, dễ thương cho cả set đồ của nàng. Đặc biệt hơn, mẫu váy này khi kết hợp cùng áo sơ mi cách điệu hoặc áo hai dây đều toát lên khí chất thanh lịch, sang trọng cho phái đẹp.
Chân váy tennis có kiểu dáng tương tự như váy xếp ly, nhưng từng đường ly của chúng có phần to hơn và độ dài ngắn trên gối. Nàng có thể kết hợp chân váy tennis với áo croptop hoặc áo thun, áo sơ mi cách điệu đều xinh lung linh. Đây còn là phong cách phối đồ thời trang Hàn Quốc thịnh hành trong giới trẻ hiện nay.
Một cách phổ biến, chúng ta thường gộp chung kiến trúc xây dựng, trang trí theo phong cách Đông Dương và kiến trúc được xây dựng tại bán đảo Đông Dương (bao gồm Việt Nam, Lào và Campuchia). Đây là hai khái niệm tuy riêng biệt nhưng bao hàm nhau tùy theo ngữ cảnh. Kiến trúc được xây dựng tại Đông Dương bao hàm một tập hợp rộng các công trình thuộc nhiều phong cách được xây dựng trải dài theo thời gian, từ khi người Pháp có mặt đến khi họ rời khỏi khu vực Đông Dương. Còn phong cách Đông Dương chỉ một tập hợp nhỏ hơn với những chủ ý và đặc điểm riêng biệt, song cũng kế thừa nhiều đặc điểm kỹ thuật của kiến trúc xây dựng ở Đông Dương.
Phong cách kiến trúc Đông Dương tuy chỉ được thực hành tập trung trong vài thập kỷ từ thập niên 1920 đến những năm đầu thập niên 1950, nhưng đã để lại dấu mốc đáng lưu ý trong giai đoạn thịnh kỳ của kiến trúc dân sự thời kỳ thuộc địa, đồng thời trở thành tiền đề cho kiến trúc theo trào lưu Hiện đại Nhiệt đới miền Nam Việt Nam về sau. Phong cách Đông Dương cho thấy các kiến trúc sư người Pháp đã có chủ ý tôn trọng văn hóa bản địa trong hoạt động xây dựng đô thị.
Bảo tàng Blanchard de la Brosse sau đổi thành Viện Bảo tàng quốc gia Việt Nam và nay là Bảo tàng Lịch sử TP.HCM. Ảnh: Tư liệu
Các bản vẽ kiến trúc Bảo tàng Blanchard de la Brosse, lập bởi KTS De Laval vào tháng 3/1926. Ảnh: Tư liệu
Các nghiên cứu thường đồng tình với nhau rằng công trình đầu tiên thể hiện rõ phong cách Đông Dương là tòa nhà chính của Đại học Đông Dương (Université Indochinois) khởi công từ năm 1923. Ban đầu tòa nhà này vốn không mang thiết kế như hiện tại. Từ khi KTS Ernest Hébrard được mời về làm việc tại Đông Dương, ông bắt đầu đặt vấn đề về việc làm cho kiến trúc dân dụng của người Pháp tại thuộc địa trở nên gần gũi và có kết nối hơn với văn hóa địa phương. Hébrard tiến hành chỉnh sửa thiết kế của tòa nhà với một mức độ trang trí ông cho là vừa đủ và tránh sự sao chép tối nghĩa của họa tiết bản địa. Từ dấu mốc này, Hébrard dẫn dắt các KTS hành nghề tại Đông Dương đi theo đường lối thực hành một phong cách kiến trúc mới mẻ đầy cảm hứng, dẫn đến thành công của những KTS như Auguste Delaval, Felix Dumail, Arthur Kruze… với hàng loạt các kiến trúc mang dấu ấn văn hóa địa phương thuộc nhiều quy mô khác nhau và nhận được đánh giá tích cực cả đương thời và ngày nay.
Nếu chúng ta mở rộng việc xem xét ra khỏi giai đoạn chính quyền dân sự ở Đông Dương đang trong thời kỳ ổn định, cân bằng về ngân sách và nguồn lực, thì hơn nửa thế kỷ trước đó, những nhà truyền giáo châu Âu đến xứ An Nam đã tạo ra những thể nghiệm đáng chú ý. Khi nhìn nhận lại, chúng ta thấy nỗ lực của họ có thể được xem là manh nha của dòng kiến trúc phong cách Đông Dương. Những ngôi thánh đường và nhà nguyện của các giáo họ khu vực Đồng bằng Bắc Bộ hình thành từ những năm đầu của thế kỷ 19 thường được mô tả là “những ngôi nhà An Nam kéo dài”, bởi họ tận dụng bộ khung nhà, cấu kiện kiến trúc và trang trí của Việt Nam có tính chất tương tự như trong kiến trúc phương Tây để nhanh chóng dựng nên ngôi nhà của Chúa. Hoạt động truyền giáo của họ đạt được thành công một phần nhờ vào nỗ lực tạo ra những công trình tôn giáo kết hợp kiến trúc bản địa, dẫn dắt giáo dân địa phương trong những trải nghiệm kiến trúc thân thuộc.
Đền kỷ niệm, Thảo Cầm Viên Sài Gòn, nay là Đền Hùng. Ảnh chụp trong thập niên 1920. Ảnh: Tư liệu
Tòa nhà chính Đại học Đông Dương – Ảnh chụp những năm 1920. Ảnh: Tư liệu
Tòa nhà chính viện Pasteur Hà Nội. Ảnh chụp trong thập niên 1920. Ảnh: Tư liệu
Theo nhận định của người viết, có thể phân chia đặc điểm của kiến trúc phong cách Đông Dương thành ba giai đoạn: Trước những năm 1920; những năm 1920-1940; sau 1940. – Giai đoạn trước những năm 1920 là thời kỳ manh nha và tìm kiếm về một hình thức kiến trúc có thể thích ứng được cả khí hậu và văn hóa bản địa. Trong giai đoạn này, những người xây dựng thường sao chép nguyên mẫu hay ứng dụng tùy tiện họa tiết trang trí bản địa để đặt vào kiến trúc và nội thất mà không lưu ý đến sự hài hòa. Kết quả là kiến trúc có khi lạ lùng mới mẻ, khi lại rất thô kệch, là một sự đan xen không đi đến mục đích hòa hợp. Các công trình từ giai đoạn này không còn lưu lại nhiều, chủ yếu chỉ có thể khảo sát thông qua ảnh tư liệu xưa. – Giai đoạn những năm 1920-1940 đánh dấu một thời đại huy hoàng khi các KTS thể hiện sự sáng tạo không ngừng và khéo léo ứng dụng họa tiết bản địa một cách có hệ thống, khởi đầu bằng sự dè dặt sau đạt tới sự tự tin. Các công trình được xây dựng bằng kỹ thuật cải tiến theo tỷ lệ phương Tây, kết hợp với gờ chỉ hay mảng phù điêu/điêu khắc bản địa lấy cảm hứng từ văn hóa ba nước Đông Dương. Các mô-típ trang trí được thống nhất từ ngoài vào trong và đạt được sự thanh nhã, hài hòa. Các công trình tiêu biểu bao gồm: Đại học Đông Dương (nay là Đại học Tổng hợp Hà Nội), Sở Tài chính Đông Dương (nay là Trụ sở Bộ Ngoại giao), Viện Pasteur Hà Nội, Đền Tưởng niệm (nay là Đền Hùng trong Thảo Cầm Viên Sài Gòn), Bảo tàng Blanchard de la Brosse (nay là Bảo tàng Lịch sử TP.HCM)…
Bản vẽ và ảnh chụp các công trình kiến trúc phong cách Đông Dương tại Hà Nội gồm: Đại học Đông Dương (ĐH Tổng hợp Hà Nội), Bảo tàng Louis Finot (Bảo tàng Lịch sử Quốc gia), Sở Tài chính Đông Dương (Trụ sở Bộ Ngoại giao). Nguồn: TTLTQG I
– Giai đoạn sau 1940 là sự kế thừa của giai đoạn trước và đánh dấu sự xuất hiện chủ động của các kiến trúc sư người Việt. Với sự ra đời của trường Mỹ thuật Đông Dương những năm đầu thập niên 1920, nhiều KTS, họa sĩ người Việt đã được đào tạo có hệ thống. Họ tiếp nhận tinh hoa mỹ thuật Đông Dương đương thời từ sự hướng dẫn của các giáo sư người Pháp. Từ cuối những năm 1930, họ bắt đầu thực hành kiến trúc-mỹ thuật và cho ra đời dòng kiến trúc phong cách Đông Dương do chính người Việt chắp bút. Ở những năm đầu của giai đoạn này, có thể nhận ra phong cách Đông Dương được hòa hợp với bố cục tạo hình của kiến trúc địa phương và Hiện đại của người Pháp. Những đường nét hiện đại ngang bằng sổ thẳng kết hợp với mái ngói âm dương bản địa và sản phẩm gốm mỹ nghệ địa phương (như gốm Sài Gòn, gốm Biên Hòa) đã tạo nên một đặc trưng thú vị.
Trên thực tế không có nhiều kiến trúc tiếp tục theo đuổi hậu kỳ của phong cách Đông Dương, do đó hầu hết các thiết kế của giai đoạn này chỉ nằm lại trong các đồ án tốt nghiệp từ trường Mỹ thuật Đông Dương. Đến đầu thập niên 1950 rất khó tìm thấy một công sở xây dựng theo phong cách này, ngoại trừ đề án Dinh Độc Lập mới không được triển khai của KTS Hoàng Hùng và một số biệt thự ở vùng Sài Gòn-Chợ Lớn. Di sản quan trọng nhất mà thời kỳ này để lại là khởi đầu của kiến trúc Hiện Đại Nhiệt Đới miền Nam với sự kết hợp tinh thần dân tộc mạnh mẽ của một Việt Nam chuyển giao thời đại.
Một thể nghiệm kiến trúc-nội thất phong cách Đông Dương tại toà nhà gian triển lãm Đông Dương trong khuôn khổ Hội chợ Nghệ thuật và Trang trí diễn ra tại Paris năm 1931. Nguồn: Musée Albert Kahn
Phong cách kiến trúc Đông Dương cũng từng có thời thịnh đạt như một vũ hội rực rỡ bên bờ biển, cũng có lúc hạ tiệc và tắt những ngọn đèn của nó. Học và tìm hiểu về lịch sử của nghệ thuật, lịch sử của kiến trúc là học về mỗi thời kỳ nghệ thuật, chủ nghĩa đã sinh ra từ các yếu tố đan xen văn hóa và bức thiết thời đại ra sao, và cũng học về làm cách nào chúng hưng thịnh để rồi tan rã. Kiến trúc Đông Dương và toàn bộ cảm xúc thời đại, thẩm mỹ riêng tư của những ngày tháng đó đã ra đi êm đẹp xuôi theo lịch sử Pháp-Việt. Ngày nay đôi lúc chúng ta vẫn có thể bắt gặp lại những dư âm Đông Dương thoảng hoặc trên những bản vẽ hay công trình muốn hoài vọng quá khứ, đôi tác phẩm nghệ thuật muốn xuyên thấu lịch sử, các công trình khảo cứu dày dặn, hay một bài thơ và một bản nhạc. Có lẽ tâm tư các cuộc trùng ngộ Đông-Tây, Cũ-Mới sẽ còn được kể đâu đó đến ngày mai xa lắm, như người ta vẫn hay tương tư về một ánh mắt đã kịp gặp gỡ và nhảy cùng một điệu Valse chỉ diễn ra một lần trong mùa Hè đã thành ký ức vĩnh cửu, nơi những người tham gia/hay đúng hơn là những nền văn hóa sẽ không thể gặp gỡ lại nhau và múa cùng theo một cách nữa…
Không gian mang cảm hứng Indochine giữa Sài Gòn