Cuộc Sống Vô Hình Tập 15

Cuộc Sống Vô Hình Tập 15

Mua gì về làm quà là điều nhiều người lao động quan tâm đến. Sau đây là một số gợi ý cho các bạn một số sản phẩm có thể mua về làm quà tặng ý nghĩa.

Mua gì về làm quà là điều nhiều người lao động quan tâm đến. Sau đây là một số gợi ý cho các bạn một số sản phẩm có thể mua về làm quà tặng ý nghĩa.

Sống ở trong kí túc xá và sống ở ngoài trường

Nếu bắt buộc phải chọn lựa, tôi sẽ chọn sống ở ngoài trường.

Ở cơ sở chính của đại học Hạ Môn, chỉ có 3 tòa nhà được dùng làm kí túc xá cho sinh viên quốc tế, và như các bạn đã biết,một tòa trong số đó là khách sạn.Có một nguyên tắc chung đó là du học sinh không được phép ở cùng khu kí túc với sinh viên bản địa. ( tuy nhiên, học sinh đến từ Hồng Kông, Đài Loan, Ma Cao có thể lựa chọn nơi họ muốn ở) vì vậy ,tôi cảm thấy thật không công bằng cho sinh viên các nước khác.

Đối với tòa nhà kí túc khách sạn mà bạn được biết, tòa nhà này có những tầng chuyên dụng chỉ dành riêng cho khách cấp cao của trường được ở. Do vậy, số lượng phòng hạn chế được cung cấp cho sinh viên đã giảm vì điều nên.Hai tòa kí túc còn lại, mỗi tòa có 6 tầng với khoảng 14 đến 20 phòng một tầng. Tuy nhiên, tầng thứ 6 của một tòa được cung cấp cho du học sinh đi theo diện học bổng, đặc biệt là các du học sinh chuyên ngành bóng chuyền.Kết quả của việc này là trong trường luôn thiếu phòng kí túc để cung cấp cho tất cả sinh viên. Đó là lý do vì sao rất nhiều học sinh bị ép phải sống ở ngoài trường.

Trước khi tôi nhận bằng tốt nghiệp và rời trường năm 2015, tôi đã có cơ hội nói chuyện với một nhân viên phụ trách quản lý kí túc xá, anh ấy nói rằng tình hình đang dần trở nên tồi tệ hơn cho các du học sinh quốc tế. Ban đầu, sinh viên đại học được xếp vào phòng 4 người, thạc sỹ ở phòng 2 người và tiến sỹ được cấp phòng đơn riêng. Và có thể họ sẽ xếp thêm người vào phòng đơn để có đủ chỗ cho mọi người (những người nghiên cứu bậc tiến sỹ sẽ phải ở chung phòng với sinh viên đại học). Tôi hy vọng nhà trường sẽ chú ý hơn và đưa ra giải pháp cho vấn đề này.

Điều có lợi duy nhất khi ở trong kí túc xá đó là bạn sẽ không phải chi trả nhiều như khi thuê căn hộ ngoài trường. Nếu bạn muốn sống ở ngoài, thì ngay gần trường có một khu chung cư cho thuê, và luôn luôn có phòng trống cho bạn chuyển vào bất cứ lúc nào. Bạn nên cẩn thận với những trung tâm mô giới, họ sẽ cố gắng để lừa tiền của bạn. Bạn nên tìm một hoặc hai người bạn để chia sẻ cùng nếu bạn không muốn ở chung với người lạ. Thêm nữa, bạn cũng nên hỏi sự giúp đỡ của những bạn sinh viên quốc tế khác, nhất là những người đã có kinh nghiệm trong việc này.

Tôi không thể so sánh chất lượng giảng dạy ở Hạ Đại với các trường khác, nhưng tôi có thể nói rằng tôi hài lòng với những gì nhận học được ở đây.

Khi tham gia khóa học một năm tiếng, tôi đã học được rất nhiều kiến thức chỉ trong vỏn vẹn một kỳ học. Thực ra, tôi bước chân đến Hạ Môn khi bản thân chỉ có thể nói được xin chào và cảm ơn bằng tiếng Trung, nhưng sau khi trải qua kỳ học đầu tiên, tôi đã có thể trò chuyện với các bạn học ( tất cả đều là người nước ngoài) bằng tiếng Trung. Tất nhiên, lúc đó tôi vẫn chưa đạt đến trình độ có thể giao tiếp lưu loát với người bản địa, nhưng tôi nhận thấy khả năng ngôn ngữ của tôi tiến bộ rất nhanh.

Tôi cảm thấy khá hài lòng khi bước vào học chuyên ngành nghệ thuật. Ban đầu tôi vẫn còn đắn đo rằng bài học có thể sẽ chỉ giới hạn trong phạm vi về Trung Quốc, nhưng tôi đã lầm. Tuy mọi thứ đều được dạy bằng Tiếng Trung, những bài giảng vẫn có nội dung đa dạng xuyên suốt các quốc gia và các nền văn hóa trên thế giới. Chúng tôi thậm chí còn có giáo viên Châu Âu đến tốt chức các hội thảo và đứng lớp giảng dạy.

Theo trải nghiệm của riêng tôi, các giảng viên và giáo sư của Hạ Đại đều là những người rất giỏi trong và rất tâm huyết, đặc biệt là khi giảng dạy cho du học sinh quốc tế. Họ thấu hiểu khó khăn về ngôn ngữ mà du học sinh gặp phải, vì vậy họ thường có cách riêng để đảm bảo học sinh hiểu hết các bài học trong ngày. Họ sẽ nhiệt tình giúp đỡ bạn nhiều nhất có thể, vậy nên đừng ngại ngần hỏi bất kì điều gì. Rất nhiều giảng viên ở đây nói tiếng Anh trôi chảy, do vậy việc giao tiếp với họ cũng không phải là trở ngại lớn.

Công tác hỗ trợ sinh viên kém chính là điều tôi không thích nhất khi ở Hạ Đại.

Bạn có thể tìm thấy tất cả các luật lệ và quy định, yêu cầu về xử lý giấy tờ,… ở văn phòng làm việc chính. Tuy nhiên, tất cả các bộ phận đều có thể thay thế vai trò của nhau để xử lý các công việc trên. Sự thiếu thống nhất với nhau giữa các bộ phận đã dẫn đến nếu bạn hỏi hai người về cùng một vấn đề, câu trả lời của họ sẽ khác nhau và thậm chí trái ngược nhau hoàn toàn. Và kết quả là: bạn phải chạy từ tòa hành chính này sang tòa hành chính khác ( điều này có thể làm bạn kiệt sức, bởi vì bạn sẽ phải chạy vòng quanh khu vực đó , và hơn nữa hầu hết tất cả các tòa nhà này đều không có thang máy) và lãng phí cả một ngày trời chỉ để có một câu trả lời rõ ràng. Cũng có thể, bạn sẽ không có được câu trả lời đó trong ngày.

Nếu bạn chưa bao giờ phải giải quyết những điều tương tự như vậy, tôi khuyên bạn nên hỏi sự giúp đỡ của những nhân viên của viện quốc tế, đặc biệt là những người có trách nhiệm trực tiếp đối với chuyên ngành bạn đang học. Họ sẽ nhiệt tình giúp bạn, và có thể họ còn hỗ trợ bạn giải quyết thắc mắc hoặc xử lý vài việc khó ( nếu bạn gặp khó khăn trong ngôn ngữ).

Bạn nên cẩn thận và chú ý hơn khi làm việc với những nhân viên lớn tuổi. Họ có thể sẽ hơi khó tính một chút. Thậm chí cả khi bạn dùng nụ cười thân thiện nhất để chào hỏi họ, thì khả năng bạn nghe thấy giọng họ khó chịu khi trả lời bạn vẫn xảy ra như thường.

Như vừa giải thích ở trên, nếu bạn có bất cứ vấn đề gì liên quan đến việc giấy tờ, bạn có thể phải đối mặt với một vài khó khăn. Bạn chắc chắn sẽ mất kiên nhẫn vào một thời điểm nào đó, nhưng, chúng ta không thể làm gì khác ngoài việc chờ đợi.

Tuy nhiên, cuộc sống nói chung của sinh viên quốc tế khá thuận lợi. Kể cả khi bạn không nói được Tiếng Trung, sẽ vẫn có những bạn bản địa cố gắng giúp đỡ bạn (thậm chí khi tiếng anh của họ không được tốt).

Tiện đây, còn một điều nữa đó là facebook, google và youtube và một số các website khác bị cấm ở Trung Quốc đại lục. Vì vậy bạn có thể hỏi những bạn quốc tế khác để tìm ra cách giải quyết.

Cassava and Vietnam Now and Then

(キャッサバとベトナム-今昔物語)Kazuo KawanoI visited Vietnam for a week this last December,  where a team of NHK video-taped for a documentary of the changes caused by the new cassava varieties I introduced 20 years ago in the lives of small framers, the enhanced activities of industrial and business communities and the development of research organizations. It was a most interesting, amusing and rewarding visit where I reunited with a multitude of former small farmers who are more than willing to show me how their living had been improved because of KM-60 and KM-94 (both CIAT-induced varieties) , many “entrepreneurs” who started from a village starch factory, and several former colleagues who became Professor, Vice Rector of Universities, Directors of research centers and so on. Vietnam can be regarded as a country whoaccomplished the most visible and visual progress most rapidly and efficiently utilizing CIAT-induced technology.

For my own record as well as for responding to the requests from my Vietnamese colleagues, I decided to record the changes and progress that had taken place in Vietnam in general and in cassava varietal development in particular in a series of picture stories. This is the first of long stories that would follow.

昨年の12月に、NHKの国際ドキュメンタリー番組の収録でベトナムを10年ぶりに再訪する機会があった。それは私が中心となって開発したキャッサバの多収性・高澱粉性の新品種群を20年 前に導入した事が引き起こした人々の生活向上の様子を、南から北へと訪ね歩く旅であった。今回の旅では、小農から出発して家を建て中農、富農となった多数 の人々、村の澱粉加工所の親父だったのが大工場のオーナーや実業家となっている幾人もの成功者、そして殆んど名前だけの研究員であったのが今や試験場長、 大学教授、副学長になっている昔の仲間達を訪ね歩いたが、その殆んどの人が私との再会を喜んでくれて、口々に新しいキャッサバ品種のおかげで自分達の生活 と境遇が革命的に良くなったと話してくれた。

私自身の記録のため、それにベトナムの昔の仲間からのリクエストに答える目的もあって、この20年間のベトナムの発展とキャッサバ生産の進展を絵物語風に書き留めることにした。これはその長い物語の始まりの章である。The basis of Vietnamese agriculture is rice. Cassava is planted on the upper parts.

In flat, dry area, they plant cassava predominantly

Meeting old friends at Hung Loc Agricultural Research Center:Now, Hoang Kim is Senior Lecturer at Nong Lam University in Ho Chi Minh city and Nguyen Huu Hy is Director of Hung Loc Agricultural Research Center

Reunion with advanced farmer Mr. Ho Sau with Hoang Kim and students in Trang Bom, Dong Nai

Reunion with advanced farmer Mr. Tong Quoc Thanh with Hoang Kim in Tay Ninh

Meeting Former Director Truong Van Ho, old colleague Trinh Thi Phuong Loan (Retired as Deputy Director) and other friends at Root Crop Research Center, Vietnam Agricultural Science Institute in Hanoi

Meeting Tran Ngoc Ngoan (Now, Vice-Rector of Thai Nguyen University), Mrs. Loan and Mr. Ngo Trung Kien (an advanced farmer) in Mr. Kien’s house, Pho Yen, Bac Thai

Meeting Mrs. Sau and Mrs. Quyen, successful former cassava farmers, in Hatay, near Hanoi

Giving concluding remarks in the end of Vietnam Journey in Lake Hoan Kiem, Hanoi,5 Dec 2009

A BRIEF HISTORY OF A SUCCESSFUL BREEDING PROGRAM

As is widely known, Vietnam has accomplished a rapid economic development in  recent 20 years. During the same period, , cassava, starting from a low status crop grown by small farmers and consumed as human food by poor people, has grown into a major crop providing raw materials for animal feeding, industrial starch processing and most recently bio-ethanol production (though I have some reservations for using cassava for this purpose), thus bringing precious cash income to millions of small farm families. When I first visited Vietnam in 1988, cassava’s acreage all over the country was 0.28 million ha with mean yield of 8.4 t/ha. It now occupies 0.56 million ha (official figure: the actual figure is said to be around 0.65 million ha; the emphasis of research is gradually shifting from varietal improvement to soil conservation) with 15.9t/ha mean yield. Vietnam has now advanced to World No. 2 exporter of cassava products next only to Thailand.It is extremely gratifying to witness this progress toward the end of my career; then, what made this experience possible? The breeding work that has brought this result started when I joined CIAT as cassava breeder in 1973, where CIAT was inaugurating an integrated cassava research program with global mandate by recruiting a half dozen of young PhD from world reputable universities. As such, I initiated a comprehensive cassava breeding program using a population which contained a vast genetic variation coming from more than 2000 native varieties collected from the centers of origin and diversification of cassava all over Latin America.Especially noteworthy in this process is the fact that those countries such as Colombia, Brazil and Mexico where abundant cassava germplasm existed donated  to or allowed CIAT to collect native cassava varieties on the condition that the newly established international research center CIAT uses all these germplasm for the welfare of people in the world without pursuing any monetary profit. It goes without saying that those rural small farmers who grew native cassava varieties inherited from their ancestors were very cooperative with the CIAT collection. The researchers as well the early CIAT administration clearly shared the immeasurable importance of basic germplasm in pursuing large scale breeding.I accomplished much of the basic breeding during the first 10 years at CIAT/Colombia and moved to Thailand in 1983 by opening a CIAT/Asia office on the understanding that the effect of cassava varietal improvement would be more eminent in Asia. Thus, I started a more practical breeding in close collaboration with Thai workers. Here again, we were very thankful that the Colombian government allowed us to transfer cassava breeding materials to Asia without condition. As a result, I had transferred more than 1 million genotypes of cassava, mainly in the form of F1 hybrid seeds, from Latin America to Asia during the 15 years that followed.

This breeding work, based on the hybridizations between Latin American and Thai materials, resulted in a great success and produced many superior varieties. Now, some 97% of the total 1.15million ha of cassava in Thailand is planted with these new varieties we developed. I transferred many advanced breeding materials from Thailand to other Asian countries such as Indonesia, Philippines, China and Vietnam. In this process as well, the Thai government authorization of transferring our breeding materials to other Asian countries, which could well be potential (in fact, actual) competitors to Thailand, was to be highly appreciated.

In 1989, I brought planting stakes of Rayong 60 and Kasetsart 50 among others as a check-in baggage of the Bangkok-Ho Chi Minh flight (The import and plant quarantine permit had been very willingly arranged by the Vietnamese institution). Upon harvesting the first cycle evaluation /multiplication at Hung Loc Center in 1990, I carried the planting stakes of these varieties from HCM to Hanoi to be evaluated and multiplied by the research institutions in the North. In retrospect, my action was rather unorthodox power play. Nevertheless, considering that this was the beginning of a long story which would develop to generating an annual additional economic effect in the order of 200 million US dollars to be shared by the millions of small farmers, power play may be justified on certain critical occasions.

F1 selection at CIAT/Colombia in1976

One of the early selections, CIAT/Colombia circa 1980

F1 selection at Rayong Center, Thailand, circa 1987

Rayong 60 in Feb 1988 at Rayong Center, one of the major early successes at CIAT/Thai collaborative breeding program

A typical cassava field in North Vietnam in 1989

Cassava harvest being carried to market in Ho Chi Minh city in 1988

Processing cassava for noodle near Bien Hoa in 1988

Cassava starch processing as a cottage industry in Tay Ninh early 1990s

By 1996, farmers can harvest more cassava for feeding pigs by planting new varieties (Here is KM-60 or Rayong 60  in Hung Loc Agricultural Research Center, Dong Nai Province (1990) and Ha Tay Province (1996)

Large scale cassava starch factories began to appear in Tay Ninh circa 1996

Cassava starch production became a big business following the step of Thailand (Tay Ninh 2009)

Now, the Bio-ethanol processing using cassava (A new Bio-Ethanol Plant is being built in Phu Tho)Ho Chi Minh city (Saigon)I began my first trip report to Vietnam 22 years ago with the following phrase “As the Air France flight 174 landed eventlessly at the airport of Ho Chi Minh City, only the vastness of the airport reminded me of its once familiar name of Tan Son Nhut, which was now more a symbol; of disrepair and abandonment.” Now, two decades later, Ho Chi Minh city is an entirely different place. See the town before and now.

The tallest building I could see in 1988. It had an eerie feeling of a ghost house.

Street filled with bicycles in 1988.Now in 2009, many new buildings were constructed and being constructed.

Traffic is now like Bangkok 20 years ago.

Now, serious efforts are being paid to keep the town presentable.

As a result, the city looks very charming these days.

A similar transmutation took place in Hanoi, but the extent of metamorphosis is actually greater in Hanoi because Hanoi in the 1980s was somewhat dismal place.

A typical Hanoi building in 1989

Hanoi outlook in 2009, it is quite an attractive town

Hanoi street is less noisy and probably more cultured than HCM (2009)

Relaxing at Hoan Kiem Lake in Hanoi (2009)

Children and housing in Bien Hoa near Ho Chi Minh city in 1988

Moon cake factory in Ho Chi Minh city in 1988

Busy street in Ho Chi Minh city in 2009

Barbecue shop in Ho Chi Minh city in 2009

Children and mothers attending an art class in Ho Chi Minh city in 2009

People (North)“Curiosos”; When we visited Hanoi in 1989, just the presence of Reinhardt Howeler caused quite a sensation.

Children in cassava field near Hanoi in 1989

People in front of Mrs. Sau’s house in Hatay, near Hanoi in 2009; Successful lives change many things.

People relaxing on the bridge at Hoang Kiem Lake in Hanoi in 2009

Hanoi street shop in 2009; Westerners are no longer a curiosity

Shops in Ho Chi Minh city (more pictures including)

Noodle shopsWhen I first visited Vietnam in 1988, there was hardly any restaurant, in many places not even an eating place for pay, outside Saigon. All our itinerary was managed by the “Liaison officer” of the Government office in charge of foreign visitors and all the eating outside the big cities was officially arranged. The choice and the quality was predictably unimpressive at that time.

HotelI described about the state of a government-run “hotel”  where we stayed in May 1989 as follows; “Yet, we had worst experiences when we traveled outside big cities. When we decided to stay in the city of Phan Rang about 350km to the northeast of Ho Chi Minh city, the new privately run hotel was all full so that we had to stay at the government run hotel. The government hotel occupied a large lot in which the sleeping quarters were 100m away from the eating place. Not a single soul was staying at this vast place on that night. I suspected no one had stayed for the past three months at least. The room was full of spider webs and dung of wall lizards and inevitably very dirty. There was no air conditioning or private toilet. A naked bulb was the only illumination and the door knob must have given out some 15 years ago and a huge pad lock had replaced it. The towel was provided but its original color was indiscernible. Many cockroaches were running in the communal bath room in which the toilet was full of rubbish and never flushed. An about 5cm rubber hose connected to the water faucet was the only shower facility (actually it worked very well; the only thing I liked of this ghost house. I was rather refreshed after suffering from all these pandemonium). The whole atmosphere suggested how a prison cell would look like. The whole setting was in good contrast with the private run hotel which was smaller but filled with guests and maintained a cheerful atmosphere. This was in the South. Things were worse in the North.Yet, the most appalling part was the payment. The attendants, all elderly women, charged each of the Vietnamese colleagues an equivalent of US$1.75 in local currency, which was not particularly high for our understanding but paying an equivalent of 1.5 day wage for this accommodation was disputable. By regulation, they charged each of us US$27.50 in hard currency. In China, foreigners usually have to pay twice as much as native Chinese for air tickets, train tickets or hotel accommodation. For the domestic air tickets of Air Vietnam, foreigners have to pay four times as much in hard currency. Yet, this time it was 15 times as much. The attendants were showing the faces of incredulity. Anyone paying money for staying in this place was surprising enough. It must take foreign idiots to pay two month salary of local people for staying in this miserable place. Something is grossly wrong with the economic system. It is a tragedy that more than ten years was necessary to realize that.”Everything changed during the past 20 years, of course. Yet, it is in the hotel situation where the change can be seen most dramatically.

Yet, the most impressive is the change in people’s attitude toward service and responsibility. I carelessly left a bag containing some memory cards and a recharger in my room at this Saigon Oscar Hotel. I realized this when I arrived in Hanoi but it was too late. Only half expectedly, I called the hotel from Yamatedai, Japan informing about what had happened. The hotel attendant answered that they were keeping the item in their Lost-and Found section. I immediately sent a Fax asking them to send the bag to my address in Japan. To my delight, the bag arrived in Yamatedai in good order a week later. I found it fair to inform this rather pleasant experience in some travelers’ Blog (口コミ旅行情報) as follows;HUNG LOC AGRICULTURAL RESEARCH CENTERIn addition to the recognition, promotion and social success of my former colleagues such as Hoang Kim, Nguyen Huu Hy, Trinh Thi Phuong Loan and Tran Ngoc Ngoan, the upgrading of the institutions where we used to conduct the varietal improvement work together is another very pleasant side product of our collaboration.We (Reinhardt Howeler and myself) started with this type of formal, if not stressful, negotiation on how we would conduct our collaboration at Hung Loc Center in 1988.

Even as late as in 1992, the meeting was not without some tenseness.

Hung Loc Center was a rather sleepy, smallish place typical of underdeveloped countries (1990)

Harvested cassava roots from the experimental plots were carried by this type of “Truck” to the nearby processing place, circa 1992.

To my delightful surprise, Hung Loc Center in 2009 is a quite different place.

New building at Hung Loc Center in 2009

Meeting old friends in front of the meeting hall at Hung Loc Center in Dec 2009.

AGRICULTURAL COLLEGE No. 3 TO THAI NGUYEN UNIVERSITYWhen we first visited North Vietnam in 1989, Thai Nguyen was a rather uninspiring rural town where the only higher education institution was a small college called Agricultural College No.3. Several students hanging their laundry at their dormitory was about the only memory I got in my first visit to AC3.AC3 campus in 1994

Children beside the cassava experiment field inside the AC3 campus in 1994

Thai Nguyen University campus in Dec 2009 (The former AC3 was upgraded to a university housing more than 10,000 students)

My dear friend Ngoan is now Vice Rector of Thai Nguyen University

Receiving a gift from the University in Dec 2009

VARIETAL IMPROVEMENTVarietal Improvement in the SouthThis is, of course, the core of the story. Since much has been reported in formal papers, I am herein just showing some photos for remembrance.The first bulk harvest of KM-60 (right) compared with the local variety, probably HL-23 (left) at Hung Loc Center in 1991.

KM-60 and the local variety with KK and Kim at Hung Loc Center circa 1993.

Director Hoang Kim standing contentedly with KM-94 (right) and the local variety (left) at Hung Loc Center circa 1993.

KK with colleagues at KM-60 field in Dong Nai in 1996

Harvest of new varieties from Thailand at Hung Loc Center in 1997.

Multiplication of a new variety from Thailand at Hung Loc Center in 1997.

Good planting of KM 98-5 in Tay Ninh in 2009.

KK and Kim in Tay Ninh at KM 419 and KM325 field in Dec 2009.

Varietal Improvement in the NorthNgoan and KK in a varietal trial field in Bac Thai circa 1995.

KK and farmers near Pho Yen in 1997.

Local variety Vinh Phu (left) and KM-94 (right) with Ngoan and KK at AC3 experiment field in 1997.

Local variety (left) and KM-60 (right) in Hatay in 1996 with Loan at the center with a TV crew.

A new selection KM-95-3 (left) and the local variety Vinh Phu (right) in Hatay in 1997 with Director Ho on the left.

A group photo taken at the experiment field in Hatay in 1997. Faces of Ho, Loan, Mr. Tat, Mrs. Sau, Mrs Guyen among others.

Cassava field near Pho Yen in Dec 2009.

Ngoan (Professor and Vice Chancellor), Mr. Kien (a dedicated farmer), KK, and Loan (Retired Deputy director) at Mr. Kien’s cassava field near Pho Yen in Dec 2009.

READINESS FOR WORKING WITH FARMERS One thing outstanding in our collaboration with the Vietnamese colleagues is their acute readiness for working closely with farmers. This is in good contrast to my Latin American experience.

Cassava field near Hanoi, circa 1995. Loan, a farm wife, KK and Ho.

Hearing from farmers in Hatay in 1996. KK and Mr. Chien, Deputy Director of Root Crop Research Center, VASI.

Loan leading a town meeting in Hatay in 1996.

Ngoan presiding a village meeting in Pho Yen in 1996.

Harvest of a field trial in Bac Thai in 1996; a curious mixture of Ngoan (Professor to be), students, farmers, an old woman and a baby.

Reunion at Mr. Kien’s house in Pho Yen 13 years later.Strangely absent from my photo collection is Hoang Kim. Kim is the undisputed champion of associating with fellow researchers from other institutions, farmers from many provinces. Kim initiated the invitation of advanced farmers to the selection field at Hung Loc Center so as to evaluate and select their own favorites; a harbinger to the later much celebrated “farmer participatory research.

Here in 2009 in Dong Nai and Tay Ninh cassava field, Kim is mixing with advanced farmers, students, extension staff and officials.SUCCESSFUL FARMER I: Mrs. Tran Thi Quyen, HatayHere are the portraits of some successful farmers who had improved their lots remarkably utilizing the new cassava varieties.

Typical cassava farmers’ houses seen in our 1989 visit in North Vietnam.Mrs. Tran Thi Quyen was one of those cassava/pig farmers in Hatay Province who had first adopted KM-60, With the better harvest of the new variety, she could increase the number of pigs she could sell to the market. This was the new house she was building using the money she earned and saved, which she was proudly showing me in my 1997 visit. The house was complete with a kitchen, toilet and bathroom under the single roof and cost some \80,000 (US$700) at that time.

Mrs. Quyen (left) with her grandchild in our reunion in Dec 2009.

Mrs. Quyen is still growing cassava and pigs. She is now building a new much bigger house.II: Mr. Ngo Trung Kien, Pho YenCassava was a small farmers’ crop used for family pig feeding or sold to small noodle factories.

Cassava chips drying on the road circa 1994.

Cassava and pig in North Vietnam before the introduction of new varieties.

Cassava noodle drying near Hanoi in 1989.

Mr. Ngo Trung Kien of Pho Yen, Bac Tay Province a dedicated farmer and one of the earliest adopters of KM-60. He has been successful in expanding his cassava/pig farming. Here in his plot in 2009, he was planting KM-98.Mr. Kien is a innovative farmer as well. He introduced feeding chickens with cassava.

Pig feeding continues as ever. Mr. Kien told us he could now sell more than

50 mature pigs to the market annually.

Meeting village people at Mr. Kien’s house, Dec 2009. He has taught all his techniques to other farmers in the same village. Many farmers have built new houses and virtually all families own a motorcycle these days.III: Mr. Tong Quoc Thanh, Tay NinhMr. Tong Quoc Thanh of Tay Ninh Province was one of the earliest adopters of KM-60 promoted by the erstwhile Director Hoang Kim of Hung Loc Center. He was reputed to have made a lot of money by the multiplication and the sales of planting stakes of KM-60 and later KM-94. Either because he is a shay man by character or he is afraid of the Tax Office, Mr. Thanh does not elaborate too much about his success especially on the money making. Nevertheless, by any standard Mr. Thanh is a vastly successful man and the extensive cassava planting of his own cannot defy the reputation.

Mr. Thanh uses KM98-5 (tai xanh) and KM419 (tai do, cut lun) and KM440 (tai trang, sieu bot) for intercropping with rubber tree, Tay Ninh in 2009.

KM-94 is still the best for mono-culture cassava in Tay Ninh, Mr. Thanh agrees. But he is planting KM98-5 (tai xanh) and KM419 (tai do) and KM440 (tai trang) extensively in his field, probably because being a new variety, KM98-5 and KM419 and KM440 still offers good opportunities for planting stake sale.V: Mrs. Nguyen Thi Sau, Hatay… When we visited Mrs. Sau in 1996, she showed us her new pig pen; KK, Mrs. Sau, Mrs. Quyen, children and Mr. Tat (Extension office at Root Crop Research Center, VASI).

In 1997, Mrs. Sau was very proud of posing in front of her new house and motor cycles. I heard the house cost some equivalent of \250,000 (US$2,000) at that time.Loan, Chien, Mrs. Sau’s husband (working in the Municipal office), Mrs. Sau and Tat.

Mrs. Sau’s new mansion in 2009.

Front view of Mrs. Sau’s mansion.

With the expansion of Hanoi city area, Mrs. Sau’s place is now much urbanized. Being a small but smart “entrepreneur”, Mrs. Sau is now President of a mineral water production and distribution company.

V: Mr. Ho Sau, Trang BomAt the time of our first visit in 1988, Trang Bom, one of the fiercest battle fields of Vietnam War, was not much more than a sleepy little town.

Mr. Ho Sau, who lived next door to Hung Loc Center near Trang Bom and Bien Hoa, was the first farmer to be invited to Hung Loc Center to observe the harvest of a cassava varietal trial which included KM-60. He quickly decided to multiply the small sample stakes of KM-60 for his own planting and later for sales to other farmers. Mr. Sau, 2nd from left, was a celebrated participant to the Workshop held at Hung Loc Center in 1997.

Mr. Sau’s cassava Palace in 2009. Mr. Sau is now an enormously successful business man owning large cassava plantings, a couple of cassava processing plants and a trading company.His garden is decorated with many wonderful objects. A sculpture carved from the root of a single tree.

Yet, the most imposing is the crocodile pool with a dozen or so crocodiles for display.

Mr. Sau is not a type to hide his success to the extent of being flamboyant. Yet, he is intent in giving opportunities to many kinds of people. He is building houses for less fortunate families in the same village. Here in this photo below, he provides land and facility for Prof. Kim and his students to conduct field experiments. As such, I was reminded of the Colombian Pablo Escobar. While Escobar was a bad guy drug king, Mr. Sau may be a good guy cassava king.

From left to right; Students of Nong Lam University, Prof. Kim. KK and Mr. Sau.GRAHAM GEEENE [ THE QUIET AMERICAN ]It was a delight to travel through Vietnam with 「The Quiet American」in hand. It was my third time to read this book. By the end of the journey, my paper back was nearly disintegrated. While I could not find this novel being sold in book stores in Ho Chi Minh and Hanoi, the street hawkers had a pirated version of the book. Honoring the hawkers’ smartness of finding the value of 「The Quiet American」as souvenir, I paid 80,000Don (some \400) to a hawker in Ho Chi Minh. In Hanoi, a hawker ran after me for some 50m offering the book for 50,000Dong.

Joy of reading 「The Quiet American」at The Continental Hotel.

Excerpts from 「The Quiet American」Graham GreeneP. 60, “I never knew a man who had better motives for all the trouble he caused.”P. 74, “I was to see many times that look of pain and disappointment touch his eyes and mouth when reality didn’t match the romantic ideas he cherished, or when someone he loved or admired dropped below the impossible standard he had set.”P. 94, “I laugh at anyone who spends so much time writing about what doesn’t exist – mental concepts.”P. 103, “If somebody asked you what your deepest sexual experience had been, What would you say?” I knew the answer to that. “Lying in bed early one morning and watching a woman in a red dressing-gown brush her hair.” “Joe said it was being in bed with a Chink and a negress at the same time.”P. 167, “He gets hold of an idea and then alters every situation to fit the idea.”Plain as it is, this novel describes about the dark side of innocence. It is now profoundly touching that Greene had clearly manifested the impossibility of America winning a war against Vietnam as far back as in 1955.

In this vein, it is unsettling to find that this novel is regarded as a simple love story, if not a melodrama, in Japan, as can be seen in the following cut out from the major newspaper Asahi. It is somehow a part of our Japanese culture to reduce things to a minimum context, resigning to not seeing the whole.DAVID HALBERSTAM [THE MAKING OF A QUAGMIRE]David Halberstam is best known for his 「The Best and the Brightest」which was published in 1972 and became a world best-seller. His earlier book「The Making of a Quagmire], published in 1965, is less known but highly appreciated by some critics for much of the Halberstam’s perspectives on the Vietnam War originated from his experiences described in this book. I have been wanting to read this book ever after I read 「The Best and the Brightest」but the book was out of print for a long time. In one of many Internet notices from “Amazon” , of which I seldom pay serious attention, I found 「The Making of a Quagmire」was republished in 2008.While 「The Best and the Brightest」is an in-depth analysis of Washington politics during the Johnson/Nixon era, 「The Making of a Quagmire」is a ground level description of the local battles and politics in Vietnam during the Kennedy time. If 「The Quiet American」is a romantic narrative of innocence and complacency, 「The Making of a Quagmire」is a poignant account of ignorance and arrogance.

While「The Making of a Quagmire」contains all the reasons why America could not win the War in Vietnam, Chapter Six “Disaster: The Battle of Ap Bac” of this book describes, factor by factor, why the South Vietnamese/American forces could not win local battles in Vietnam. It is not that the Battle of Ap Bac was the turning point of the Vietnam War. It is remarkable because the Battle of Ap Bac contained all the elements why the Viet Cong/National Liberation Front could not be defeated.If one reads 「The Making of a Quagmire」seriously, it should be transparent under the bright sun that this war could not be won by outside forces. Yet, Kennedy/Johnson Administration did not learn from the Pulitzer Prize (1964) of Halberstam in general and from the Battle of Ap Bac (Jan 1963) in particular. The North bombing by the US Air Force started in Feb 1965 and US Marines Corps were massively stationed at Da Nang in Mar 1965. History continues. As if nothing had not been learnt from Vietnam, and from 「The Best and the Brightest」in particular, the father/son Bush Administration went ahead with the Iraq and Afghan War on the same ignorance and arrogance. To human history, what is not learnt often outweighs what is learnt.

EPILOGUEThroughout my many years of association with Vietnam, I have gotten to know many people, whom I seem to be able to categorize in retrospect. I got my first impression of the Vietnamese from the several Vietnamese trainees staying at the International Rice Research Institute, Los Baños, Philippines in 1963 and it was not particularly a favorable one. They appeared rather uncaring, cynical and apathetic, if not selfish, contemptuous, and corrupt. I may be too harsh and judgmental on them; nevertheless, Halberstam wrote about this type of people belonging to the upper strata of the South Vietnamese society during the same period so vividly and critically in 「The Making of a Quagmire」that my judgment might not have been too far away from the reality.My ten years of close collaboration with my cassava breeding colleagues in the 1990s and the reunion with them in this trip completely changed my assessment of the Vietnamese. As evidenced by the series of my reporting here, they are industrious, insightful, considerate and indefatigable, as if to emulate General Vo Nguyen Giap. I might be a little too positively partial to those friends of mine. Nevertheless, I have a similar feeling toward some of my colleagues in Rayong, Thailand and Nanning, China to count a few. During the two decades of post-war Japan, we seem to have many Japanese of this category as well.Then comes the mass of the population who just want tomorrow to be better than today. In this trip, I was deeply impressed and touched in meeting many people who seemed never to doubt tomorrow is better than today. This reminds me of the Japanese during the next two decades of post-war where the majority of the population was seeing a rosy future. Now in Japan, more than 30,000 people commit suicide annually and the main reason for this act is believed to be hopelessness to the present and future. Needless to say, Vietnam is not without problems such as the incompleteness of juridical system or rampant corruption to name some. Yet, the proportion of people feeling happy seems to be far higher in Vietnam than in Japan now. It is fascinating to imagine where these former colleagues of mine would further lead this society to.People at a cassava open market near Hanoi in 1989.

People on a boat in Saigon river in 1988.

People on a ferry near Hanoi in 1989.

Boys on a Hanoi street in 1991.

Girls on a Hanoi street in 1991.

Two daughters at a village starch plant in Tay Ninh in1992.

People harvesting rice in Tay Ninh in 2009.

Hyper-energetic people in Ho Chi Minh city in 2009.

People relaxing at Hoan Kiem Lake, Hanoi in 2009.

Một gánh kiền khôn quẩy tếch ngànHỏi chi bán đó, dạ rằng thanÍt nhiều miễn được đồng tiền tốt,Hơn thiệt nài bao gốc củi tànỞ với lửa hương cho vẹn kiếpThử xem sắt đá có bền ganNghĩ mình lem luốc toan nghề khácNhưng sợ trời kia lắm kẻ hàn.xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tran-khanh-du-ban-than/(Cây gỗ TẾCH rất tốt cho bán than, chính trung phía sau dinh Thống Nhất)

Giống sắn Phú Yên KM568, KM539, KM537, KM440, KM419, KM94* ngày mới

Vietnamese cassava todayGood friends are hard to find, hard to leave behind and impossible to forget.Miss you Christmas seasonHoang KimVietnamese cassava today, https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/  the urgency to preserve and develop cassava sustainably. The cassava revolution in Vietnam https://youtu.be/81aJ5-cGp28  is a success story. Greetings from HoangKim Vietnam VNCP to Howeler, Martin and friends CIAT, ACIAR “Establishing sustainable solutions to cassava diseases in mainland Southeast Asia”. Merry Christmas and Happy New Year.

Dear Dr. Reinhardt Howeler,Hello teacher and great friend of Asian cassava farmers. Photo 1 The Global Cassava Workshop in Vietnam in 2000, with the beloved wife of Reinhardt Howeler, and Professor Pham Van Bien, Director of the Southern Institute of Agricultural Science and Technology, seated in the front row on the left. Now she is gone. Please give us belated condolences to you. I and VNCP lost your email. The photo is a silent gratitude in our hearts. Photo 2 Dr. Reinhardt Howeler and Dr. Kazuo Kawano receives the State Prize of Vietnam, presented by Mr. Nguyen Gioi, Deputy Minister of MARD, and Professor Pham Van Bien, Director of IAS, on 4/3/1997. Photo 3 is seven books on CIAT Vietnam, late 20th century and early 21st century, recognizing your outstanding contributions. Photo 4 is Luis Eduardo Barona and Hoang Kim with cassava variety C39 at CIAT in 2003 in collaboration with Hernan Ceballos and Martin Fregene. Photo 5 is the main cassava variety KM419, KM440, HN1, KM568, KM537, KM534, KM94* of Vietnam’s cassava today.

You are always in our hearts. We will always remember and thank you.My warm greetings to you.Best regards, Hoang Kim

Tin Maung Aye, Clair Hershey, Hoang Kim, Ngo Quang Vinh, KM140 L, KM419 R, 2014 Quyền Viện Trưởng Viện IAS, TS. Ngô Quang Vình cùng với TS. Clair Hershey, Trưởng chương trình chọn giống sắn CIAT, TS Tin Maung Aye chuyên gia CIAT và TS. Hoàng Kim đánh giá giống sắn KM419 (bên phải) và KM140 (bên trái)

Sắn Việt Nam ngày nayNHỚ BẠN MÙA GIÁNG SINHHoàng Kim

Bạn tốt khó tìm, khó bỏ lại và không thể quên lãng. Cách mạng sắn Việt Nam  The cassava revolution in Vietnam https://youtu.be/81aJ5-cGp28 là câu chuyện thành công. Sắn Việt Nam ngày nay, https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/ sự cấp thiết phải Bảo tồn và phát triển sắn bền vững.  Lời chào từ HoangKim Vietnam VNCP đến Howeler, Martin với các bạn CIAT, ACIAR “Establishing sustainable solutions to cassava diseases in mainland Southeast Asia”. Chúc mừng Giáng sinh an lành và Năm mới hạnh phúc

Tiến sĩ Reinhardt Howeler quý mến,Kính chào người Thầy và bạn lớn của nông dân trồng sắn châu Á. Ảnh 1 Hội thảo sắn toàn cầu ở Việt Nam năm 2000, có mặt người vợ yêu quý của Reinhardt Howeler và giáo sư Phạm Văn Biên, Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam. Nay bà đã mất. Hãy cho chúng tôi chia buồn muộn tới bạn. Tôi và VNCP lạc email bạn. Ảnh này là sự ghi ơn thầm lặng trong lòng chúng tôi. Ảnh 2 Tiến sĩ Reinhardt Howeler Tiến sĩ Kazuo Kawano nhận giải thưởng của nhà nước Việt Nam, được trao tặng bởi ông Nguyễn Giới, thứ trưởng MARD, và giáo sư Phạm Văn Biên, Viện trưởng IAS, ngày 4/3/1997. Ảnh 3 là bảy sách sắn CIAT Việt Nam, cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, ghi nhận những đóng góp nổi bật của các bạn. Ảnh 4 là Luis Eduardo Barona và  Hoàng Kim với giống sắn C39 ở CIAT năm 2003 trong sự hợp tác với  Hernan Ceballos và Martin Fregene. Ảnh 5 là giống sắn chủ lực KM419 của Sắn Việt Nam ngày nay.Các bạn luôn trong lòng chúng tôi. Chúng tôi luôn nhớ và ghi ơn các bạn.Lời chào nồng nhiệt của tôi đến bạn.Trân trọng Hoàng Kim

GIỐNG SẮN KM 140Nguồn gốc: Giống sắn KM140 là con lai của tổ hợp KM 98-1 x KM 36 do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Trần Công Khanh, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Nguyễn Hữu Hỷ, Phạm Văn Biên, Đào Huy Chiên, Reinhardt Howeler và Hernan Ceballos 2007, 2009). Giống đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống quốc gia năm 2009 trên toàn quốc và đoạt giải Nhất Hội thi sáng tạo kỹ thuật toàn quốc VIFOTEC năm 2010. Giống KM140 được trồng nhiều tại các tỉnh phía Nam với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 30.000 ha, Năm 2012 ước trồng trên 150.000 ha.

Đặc điểm giống:+ Thân xanh, thẳng, ngọn xanh, cây cao vừa phải, không phân nhánh.+ Năng suất củ tươi: 33,4 – 35,0 tấn/ha.+ Tỷ lệ chất khô: 34,8 – 40,2%.+ Hàm lượng tinh bột: 26,1- 28,7%.+ Năng suất bột : 9,5 -10,0 tấn/ha+ Chỉ số thu hoạch: 58 -65 %.+ Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng.+ Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.+ Thời gian giữ bột ngắn hơn KM94

GIỐNG SẮN KM98-5Nguồn gốc: Giống sắn KM98-5 là con lai của tổ hợp KM 98-1 x Rayong 90 do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Trần Công Khanh, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Nguyễn Hữu Hỷ, Phạm Văn Biên, Đào Huy Chiên, Reinhardt Howeler và Hernan Ceballos 2006, 2009). Giống được UBND tỉnh Tây Ninh và UBND tỉnh Đồng Nai công nhận kết quả đề tài ứng dụng KHKT cấp Tỉnh năm 2006. Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống năm 2009 cho các vùng Đông Nam Bộ, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên Giống KM98-5 được trồng nhiều tại các tỉnh phía Nam với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 25.000 ha, năm 2012 ước trồng trên 100.000 ha, ngày nay vẫn còn là giống phổ biến..

Đặc điểm giống:+ Thân xanh, hơi cong ở gốc, ngọn xanh, ít phân nhánh.+ Giống sắn KM98-5 có cây cao hơn và dạng lá dài hơn so với KM419+ Năng suất củ tươi: 34,5 tấn/ha.+ Tỷ lệ chất khô: 39,2%.+ Hàm lượng tinh bột: 28,5%.+ Năng suất bột : 9,8 tấn/ha+ Chỉ số thu hoạch: 63 %.+ Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng.+ Thời gian giữ bột tương đương KM94+ Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.Giống sắn KM98-1

Nguồn gốc: KM98-1 là con lai Rayong 1x Rayong 5 (= Rayong 72) do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Trần Công Khanh, 1999). Giống KM98-1 được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận năm 1999 cho các vùng Đông Nam Bộ, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên. Giống KM98-1 được trồng phổ biến tại các tỉnh Tây Ninh, Đồng Nai, Nghệ An, Thừa Thiên Huế…. với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 18.000 ha, hiện trồng trên 20.000 ha ở Việt Nam, Giống sắn KM98-1 nay (2021) vẫn còn là phổ biến ở Việt Nam, nhưng trước đó nguồn giống KM98-1 từ Việt Nam đã được mở rộng thành giống sắn chủ lực tại Lào, Campuchia và Myanmar .

Đặc điểm giống:+ Thân xanh, tai lá rõ, lá xanh, cọng tím+ Năng suất củ tươi: 32,5 – 40,0 tấn/ha.+ Tỷ lệ chất khô: 35,8%.+ Hàm lượng tinh bột: 27,2- 28,3 %.+ Năng suất bột : 8,9 tấn/ha+ Chỉ số thu hoạch: 66 %.+ Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng.+ Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.+ Bảo quản giống ngắn hơn KM94

KM98-1 = Rayong 1 x Rayong 5, lai tạo tại Việt Nam, cùng cha mẹ với là Rayong 72 của Thái Lan, cũng là giống sắn 81 ở Cămpuchia https://you

Hoang Kim, K. Kawano, Tran Hong Uy, Tran Ngoc Quyen, Vo Van Tuan and Tran Cong Khanh.1999. Result of selection KM98-1 cassava variety. Recognition document report of KM98-1 variety. Scientific Conference of Agriculture and Rural Development, held in Da Lat. July 29-31, 1999. 29 p.

The KM98-1 cassava variety is a Rayong 1x Rayong 5 hybrid Thai KU 72 in the picture above, but the selection of the parent variety, crossbreeding and line selection is entirely done in Vietnam) by the Institute of Science and Technology. Southern Agriculture techniques selected and introduced (Hoang Kim, Kazuo Kawano, Tran Hong Uy, Tran Ngoc Quyen, Vo Van Tuan, Tran Cong Khanh, 1999). The variety KM98-1 was recognized by the Ministry of Agriculture and Rural Development in 1999 for the Southeast, Central Coast and Central Highlands regions. Like KM98-1 is popularly grown in the provinces of Tay Ninh, Dong Nai, Nghe An, Thua Thien Hue…. with the harvested area in 2008 of over 18,000 hectares, in 2010 planted over 20,000 hectares. There is a popular variety now. The cassava variety KM98-1 released to Laos in the Vietnam-Laos cooperation program contributed very effectively to CIAT.

Hoang Kim, K. Kawano, Pham Van Bien, Tran Ngoc Ngoan, Tran Ngoc Quyen and Trinh Phuong Loan. 2001. Cassava breeding and varietal dissemination in Vietnam from 1975 to 2000. In: R.H. Howeler and S.L. Tan (Eds.). Cassava’s Potential in the 21st Century: Present Situation and Future Research and Development Needs. Proc. 6th Regional Workshop, held in Ho Chi Minh city, Vietnam. Feb. 21-25, 2000. pp. 147-160. http://danforthcenter.org/iltab/cassavanet

Hoang Kim, Pham Van Bien and R. Howeler 2003. Status of cassava in Vietnam: Implications for future research and development. In: A review of cassava in Asia with country case studies on Thailand and Viet Nam. FAO-IFAD-CIAT-CIRAD-IITA-NRI. Proc. Validation Forum on theGlobal Cassava Development Strategy, held in FAO, Rome, Italy. April 26-28, 2000. Vol/3.Rome, Italy. pp. 103-184 http://www.globalcassavastrategy.net

Hoang Kim, Tran Ngoc Quyen, Nguyen Thi Thuy, Vo Van Tuan, Tran Cong Khanh, Nguyen Thi Sam, Truong Van Ho, Nguyen Thanh Binh, Nguyen Dang Mai, Luong Thi Quyet, Hoang Thi Hien, K. Kawano, R. Howeler, P. Vanderzaag, E. Chujoy, Il Gin Mok, Zhang Dapheng and YehFang Ten. 2006a. Final Report, Breeding of Cassava and Sweet Potatoes Suitable for Agroecological Regions of South Vietnam (1981-2006). Institute of Agricultural Sciences for Southern Vietnam, Proc. 90th Establishment Anniversary (1925-2015).

Hoang Kim, Pham Van Bien, R. Howeler, H. Ceballos, Joel J. Wang, Tran Ngoc Ngoan, Tran Cong Khanh, Nguyen Huu Hy, Nguyen Thi Thuy, Tran Ngoc Quyen, Vo Van Tuan, Trinh Phuong Loan, Nguyen Trong Hien, Nguyen Thi Sam, Tran Thi Dung, Tran Van Minh, Dao Huy Chien,Nguyen Thi Cach, Nguyen Thi Bong, Nguyen Viet Hung, Le Van Luan, Ngo Vi Nghia, Tran Quang Phuoc and Nguyen Xuan Thuong. 2006b. Cassava Development Project Summary (2001-2005). In: Institute of Agricultural Sciences for Southern Vietnam, Proc. 90th Establishment Anniversary (1925-2015).

KM98-1 = Rayong 1 x Rayong 5, lai tạo tại Việt Nam, cùng cha mẹ với là Rayong 72 của Thái Lan, cũng là giống sắn 81 ở Cămpuchia https://youtu.be/bkExg8Jh_Ds

see more Cassava conservation and sustainable development in Vietnam In: Share book https://cgspace.cgiar.org/handle/10568/72642 Sustainable cassava production in Asia for multiple uses and for multiple markets: Proceedings of the ninth regional workshop held in Nanning, Guangxi, China PR, 27 Nov – 3 Dec 2011See more: Chọn giống sắn kháng CMD; Chọn giống sắn kháng CWBD; Chọn giống sắn Việt Nam; Cách mạng sắn Việt Nam; Bảo tồn và phát triển sắn; Sắn Việt Nam ngày nay; Vietnamese cassava today

long-time no hearFrom: Howeler, Reinhardt (CIAT-Emeritus) [email protected]: Hoàng Kim [email protected] Dr. Kim:I hope you saw the letter I wrote to you on June 26 this year, informing you that my wife of 53 years, Jane, had passed away after a long and painful disability due to a disinformation of her spine.  She was 81 years old. Let me know if you did not get this letter.I am not sure whether you are retired yet or not, but I am sure you have remained busy writing and organizing activities about cassava.  For the past ten years I have been busy taking care of my wife, day and night, so I did not have time for much else.  Now that she is no longer alive, I am home alone, although I have some company from a Mexican man who has rented a room in our house. It also means that I have more time to other things, besides walking, bicycling and swimming every day to stay healthy. I am now 79 years old.  Currently, I am organizing a box full of old photos.  I came across some photos about an award Dr. Kawano and myself received from the Minister of Agriculture of Vietnam.  This was during one of our Workshops in Ho Chi Minh City, but I forgot the exact dates, or even the year. Some of the photos show that the workshop was held from March 4-6, 199…..  If you can tell me the year this happened I would much appreciate it, so I can date the photos and put them in a photo book.  This was one of the highlights of my long cassava career, which has left me with many good memories.

Looking forward to hear from you.  I hope you and your family are doing well and remain healthy.

With best regards.  ReinhardtXin chào tiến sĩ Kim:Tôi hy vọng bạn đã nhìn thấy bức thư tôi viết cho bạn vào ngày 26 tháng 6 năm nay, thông báo với bạn rằng người vợ 53 năm chung sống của tôi, Jane, đã qua đời sau một thời gian dài và đau đớn vì khuyết tật cột sống của cô ấy. Bà đã 81 tuổi. Hãy cho tôi biết nếu bạn không nhận được thư này.Tôi không chắc là bạn đã nghỉ hưu hay chưa, nhưng tôi chắc rằng bạn vẫn bận rộn với việc viết và tổ chức các hoạt động về sắn. Cả chục năm nay tôi bận bịu chăm sóc vợ cả ngày lẫn đêm nên tôi không có thời gian cho việc khác. Bây giờ cô ấy không còn sống nữa, tôi ở nhà một mình, mặc dù tôi có một số công ty từ một người đàn ông Mexico đã thuê một phòng trong nhà của chúng tôi. Điều đó cũng có nghĩa là tôi có nhiều thời gian hơn cho những việc khác, ngoài việc đi bộ, đi xe đạp và bơi lội mỗi ngày để giữ gìn sức khỏe. Bây giờ tôi đã 79 tuổi. Hiện tại, tôi đang tổ chức một hộp đầy những bức ảnh cũ. Tôi đã xem qua một số bức ảnh về giải thưởng mà Tiến sĩ Kawano và bản thân tôi đã nhận được từ Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Việt Nam. Đây là trong một trong những Hội thảo của chúng tôi tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng tôi đã quên ngày tháng chính xác, hoặc thậm chí cả năm. Một số hình ảnh cho thấy hội thảo được tổ chức từ ngày 4-6 / 3/199… .. Nếu bạn có thể cho tôi biết năm mà điều này xảy ra thì tôi rất cảm kích, vì vậy tôi có thể xác định niên đại của các bức ảnh và đưa vào sách ảnh. Đây là một trong những điểm sáng trong sự nghiệp trồng sắn lâu đời của tôi, nó đã để lại cho tôi rất nhiều kỷ niệm đẹp.Mong được nghe từ bạn. Tôi hy vọng bạn và gia đình của bạn đang làm việc tốt và vẫn khỏe mạnh. Trân trọng kính chào. Reinhardt

Lời chào từ Hoàng Kim Việt Nam, VNCP phúc đáp thư bạn. Chúc bạn và gia đình vui khỏe, hạnh phúc trong Giáng sinh sắp diễn ra. Hoàng Kim và gia đình khỏe. Mình đã nghỉ hưu, nhưng tôi vẫn đang tiếp tục nghiên cứu về sắn ở VNCP phối hợp với TS Nguyễn Thị Trúc Mai, DARD Phú Yên và TS Hoàng Long, NLU. Chủ đề là “Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính (CMD, CWBD) phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên và các vùng phụ cận.Tôi đã thấy trên Twitter tại đường dẫn đến dòng tweet https://twitter.com/cassdiseaseasia/status/1460897971063570433?s=21  về hai giống sắn CR24-16 và TMEB419 và video của DNRTV http://dnrtv.org.vn/tin-tuc-n107515/benh-kham-la-mi.html , nói về giống sắn TMEB419,  và video của TNRTV https://youtu.be/QCo_eFohvpQ

Chúng tôi chưa tham gia vào việc phát triển hai giống sắn này, vì chưa có hai giống sắn ấy, và chưa biết rõ tài liệu tự công bố ở Việt Nam về năng suất củ tươi, hàm lượng tinh bột và năng suất tinh bột ổn định của giống sắn TMEB419 ở Việt Nam trong sự so sánh với số liệu gốc của  IITA goseed cassava, https://iitagoseed.com/goseed-cassava/ , là tài liệu tự công bố ở châu Phi. Hoàng Kim xin trả lời Martin Fregene về câu hỏi “Làm thế nào để họ chấp nhận được đối với nông dân ở Việt Nam”?: Bạn cần phải có số liệu công bố kết quả thực nghiệm DUS và VCU tại Việt Nam, được MARD chấp nhận, về hai giống sắn CR24-16 và TMEB419, theo quy chuẩn quốc gia Việt Nam.Sắn Việt Nam ngày nay, đều có gen kháng CMD của giống sắn C39 từ CIAT, cũng là gia đình của CR24-16 với các giống sắn KM419, KM440, KM568, KM535, KM534, KM536, KM537, KM440, KM397. Như bạn đã biết, tôi tới CIAT năm 2003 để làm việc với Hernan Ceballos và Martin về chọn giống sắn DH. Việt Nam năm 2003 đã nhập nội giống sắn từ CIAT, có giống C39, và có đủ hồ sơ nhập giống sắn của CIAT với giấy phép của MARD. Vì vậy, tôi biết rất rõ hiệu suất của dòng C39 mà tôi đang hiện có ngày nay, tuyển chọn từ năm 2003 (*). Tôi và “nhóm Hoàng Kim” từ đó đến nay đã liên tục làm việc Bảo tồn và phát triển sắn, gồm: Giống sắn chủ lực KM419, cũng là tác giả của các giống sắn phổ biến trước đó tại Việt Nam KM140, KM98-5, KM98-1, KM94 (tên gốc KU50), SM937-26. Ở Việt Nam, giống sắn KM419 và KM440 đến nay là phổ biến nhất, sau cả áp lực nặng của bệnh khảm lá CMD và bệnh chổi rồng CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcI và https://youtu.be/kjWwyW0hkbU chúng tôi khuyên nông dân nên trồng các loại giống sạch bệnh KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 (và hai giống sắn CR24-16 và TMEB419 nếu có) để khảo nghiệm DUS và VCU. Sắn Việt Nam bảo tồn và phát triển bền vững: xem thêm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/

Cảm ơn bạn vì sự liên kết thông tin quan trọng này. Lời chào nồng nhiệt của tôi đến gia đình bạn. Trân trọng Hoàng Kim(*) Hoang Kim, Nguyen Phuong, Hoang Long, Tran Cong Khanh, Hernan Ceballos, Rod Lefroy, Keith Fahrney, Tin Maung Aye and Reinhardt Howeler 2010. Recent progress in cassava breeding and the selection of improved cultivars CIAT. In: A New Furture for Cassava in Asia: Its Use as Food, Feed and Fuel to Benefit the Poor. 8th Asian Cassava Research Workshop October 20 – 24, 2008 in Vientiane, Lao PDR. papers 223 – 233

Greetings from Martin FregeneFrom: Martin Fregene To: Hoàng Kim [email protected]

Dear Hoang KimThis is Martin Fregene saying hello after a long time! How are you and your family?  Are you still in cassava research or you have retired and moved to a private sector company?  I saw on Twitter this tweet about two varieties recently released in Vietnam CR24-16 and TMEB419, see the link to the tweet below. Were you involved in the development of these varieties?  Do you know the fresh root yield, starch yield and starch yield stability of the two varieties?  How acceptable are they to farmers?https://twitter.com/cassdiseaseasia/status/1460897971063570433?s=21As you know I left CIAT to the US and now working at the African Development Bank in Abidjan. But I was involved in the production of C18, one of the parents of CR24-16, and even the progeny while at CIAT as part of the CMD molecular breeding program. So I am interested in the performance of the CR24-16 line. Thanks for any information you can provide and I look forward to hearing from you soon. My warm regards to your family. Sincerely Martin

Greetings from HoangKimVietnamFrom: Hoàng Kim [email protected]; [email protected]: Martin Fregene

Dear Professor Martin FregeneGreetings from Hoang Kim Vietnam, VNCP replies to your letter. Wishing you and your family a happy and healthy Christmas in the coming time. Hoang Kim and family are healthy. I am retired, but I am still continuing to research cassava at VNCP in collaboration with Dr. Nguyen Thi Truc Mai, DARD Phu Yen and Dr. Hoang Long, NLU. The topic is “Study on selection of cassava varieties with high starch yield, resistant to major pests and diseases (CMD, CWBD) suitable for production conditions in Phu Yen province and surrounding areas”. I saw it on Twitter. at the link to the tweet https://twitter.com/cassdiseaseasia/status/1460897971063570433?s=21  about the two cassava varieties CR24-16 and TMEB419 and DNRTV’s video http://dnrtv.org.vn/tin-tuc- n107515/benh-kham-la-mi.html , talk about cassava variety TMEB419, and video by TNRTV https://youtu.be/QCo_eFohvpQ

We have not participated in the development of these two cassava varieties, because there are not two varieties of cassava yet, and we do not know the self-published documents in Vietnam on fresh tuber yield, starch content and stable starch yield. Determination of cassava variety TMEB419 in Vietnam in comparison with original data from IITA goseed cassava, https://iitagoseed.com/goseed-cassava/, which is self-published in Africa. Hoang Kim would like to answer Martin Fregene on the question “How can they be acceptable to farmers in Vietnam”?: You need to have data published on experimental results of DUS and VCU in Vietnam, approved by MARD accepted, about two varieties of cassava CR24-16 and TMEB419, according to the national standards of Vietnam. In Vietnam, cassava varieties KM419 and KM440 are by far the most popular, after both the severe pressure of CMD and CWBD. https://youtu.be/XDM6i8vLHcI and https://youtu.be/kjWwyW0hkbU we advise farmers to plant disease-free varieties KM568, KM535, KM419, KM440, KM94, KM140, KM98-1, HN5, HLS14 (and two cassava varieties CR24-16 and TMEB419 if available) for DUS and VCU testing. Vietnamese cassava conservation and sustainable development: see more https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chon-giong-san-khang-cmd/Today’s Vietnamese cassava all have CMD resistance gene of C39 cassava variety from CIAT, also family of CR24-16, with cassava varieties KM419, KM440, KM568, KM535, KM534, KM536, KM537, KM440, KM397. As you know, I went to CIAT in 2003 to work with Hernan Ceballos and Martin on DH cassava breeding. Vietnam in 2003 imported cassava varieties from CIAT, has C39 variety, and has enough records to import cassava varieties from CIAT with MARD’s license. So I know very well the performance of the C39 series I have today, sifting from 2003 (*). Since then, “Hoang Kim team” and I have been continuously working on the conservation and development of cassava, including: The main cassava variety KM419, also the author of the previously popular cassava varieties in Vietnam KM140, KM98- 5, KM98-1, KM94 (original name KU50), SM937-26. Thank you for this important informative link.My warm greetings to your family.Best regards, Hoang Kim

VIETNAMESE CASSAVA TODAYSắn Việt Nam với Hernan CebanlosHoàng Kim

Greeting from Hoang Kim Vietnam to Hernán Ceballos Lascano and my teachers and friends. Best wish to you and your family on New Days; Good friends are hard to find, harder to leave, and impossible to forget see more https://hoangkimlong.wordpress.com/category/vietnamese-cassava-today/

SẮN VIỆT NAM BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG thích hợp trên ruộng nông dân. Sự hợp tác chặt chẽ đã xâu chuỗi sự thành công bền vững. xem tiếp Cách mạng sắn Việt Nam (The cassava revolution in Vietnam)

Trại Chăn nuôi  Suối Dầu ở Suối Cát xã Cam Lâm, cách Nha Trang 20 km về phía nam và cách Đà Lạt 191 km. Nơi cột cây số ven đường Quốc lộ 1 có tấm bảng hiệu khiêm nhường chỉ đường vào đất lành suối Dầu ông Năm Yersin. (Suối Dầu hay suối Giầu, giống như Đại Ngãi hay Đại Nghĩa, quê hương người anh hùng lao động Lương Định Của con đường lúa gạo Việt Nam ở Sóc Trăng). Trại Chăn nuôi Suối Dầu Cam Lâm chính nơi đây năm 1993 đã là nôi khảo nghiệm nhân giống sắn KM94, SM937-26 ra Khánh Hòa và các tỉnh miền Trung Việt Nam sau hơn nữa thế kỷ từ năm 1943 mà bác Năm Yersin mất. Chị Đinh Thị Dục, giám đốc Trung tâm Khuyến Nông và Khuyến Lâm Khánh Hòa đã phối hợp cùng chúng tôi công bố kết quả này tại sách sắn ”Chương trình sắn Việt Nam hướng đến năm 2000″ trang 239 – 243. Tôi tìm về di sản đất lành Suối Dầu ông Năm Yersin với biết bao xúc động cảm khái. Tôi lắng nghe các cây cao su già trăm tuổi, mía, đồng cỏ …và các ruộng sắn rì rào trò chuyện với gió núi, gió đồng quê gió biển. Chính nơi đây, trên một phần tư thế kỷ trước, chúng tôi đã đến đây nhiều lần và thấu hiểu và chiêm nghiêm trên cõi đời này có nhiều điều uẩn khúc. Mục tiêu sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật có lời giải đúng và làm được việc.

Chúng tôi đến trồng sắn KM94, SM937-26 tại khu đất 500 ha của ông Năm Hoàng Yersin tại Suối Dầu Cam Lâm . Đó là một duyên may kỳ lạ. Giống sắn KM94 đã loang nhanh khắp miền Trung và Việt Nam, thành giống sắn chủ lực Việt Nam. Giống sắn SM937-26 sau gần 30 năm (1994-2022) nay vẫn là một trong những nguồn lợi chính cho bao người dân ở tỉnh Khánh Hòa. Ngày 25 tháng 4 năm 2022, đề tài “Một số giống cây trồng, vật nuôi đạt hiệu quả kinh tế phù hợp trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa” do tiến sĩ Nguyễn Thanh Phương, nguyên Phó Viện Trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp Duyên hải Nam Trung Bộ chủ trì thực hiện, phối hợp cùng với Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn với các cơ quan hữu quan Khánh Hòa đã đánh giá thực trạng nguồn vật liệu giống cây trồng vật nuôi tốt của tỉnh Khánh Hòa. Đề tài tiếp tục xác nhận rằng giống săn SM937-26 là giống sắn tốt nhất hiện nay trên địa bàn tỉnh (Giống sắn này được tích hợp gen tốt thành KM397, KM505, KM7, đang tiếp tục tích hợp gen KMN539 kháng CMD bảo tồn phát triển giống sắn KM568, KM537, KM534)

CÂY LƯƠNG THỰC VIỆT NAMHoàng Long, Hoàng Kim (chủ biên) và đồng sựhttp://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlong

Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌChttps://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Trở về trang chínhHoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on witter